Đánh giá các rối loạn về hô hấp vỡ tuần hoỡn của bệnh nhân chấn thương sọ não khi vào viện
Chấn thương sọ não (CTSN) đ-ợc định nghĩa lμ bất cứ sự biến đổi về tâm thần và giải phẫu chức năng có liên quan tới các va chạm vào đầu [7]. Đây là một vấn đề y tế quan trọng của toàn xã hội vì tỷ lệ tử vong cao, để lại các di chứng nặng nề vμ đa số nạn nhân ở tuổi lao động [7]. Trong các tai nạn giao thông, CTSN chiếm 71% vμ chiếm tới 64% các trường hợp tử vong [4]. Ngoài các tổn th-ơng trong sọ do cơ chế chấn thương gây ra, CTSN còn gây ra một loạt các rối loạn ngoμi sọ như: tim mạch, hô hấp, nội tiết, đông máu, chuyển hoá….
Đến lượt chính các rối loạn nμy tiếp tục gây nên các tổn thương thứ phát trong sọ và là nguyên nhân của 54% các trường hợp tử vong trong CTSN nặng [4]. Rối loạn hô hấp và tuần hoàn là các rối loạn quan trọng nhất trong các rối loạn ngoài sọ, gây tử vong nhanh vμ tiên l-ợng lâu dμi rất xấu [4]. Việc chẩn đoán vμ xử lý sớm nhất sau chấn thương rối loạn hô hấp vμ tuần hoàn đ-ợc thừa nhận lμ một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của cấp cứu vμ hồi sức CTSN [3]. Theo chúng tôi được biết hiện chưa có một nghiên cứu nμo tiến hμnh đánh giá các rối loạn về hô hấp vμ tuần hoμn của bệnh nhân CTSN nói chung vμ CTSN nặng nói riêng tại phòng khám. Vì vậy, rất cần có các nghiên cứu về những rối loạn nμy để góp phần đánh giá đúng các rối loạn hô hấp vμ tuần hoμn, giúp cho việc tiên lượng và xử trí tốt hơn các bệnh nhân chấn thương sọ não. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
– Bệnh nhân được chẩn đoán CTSN hoặc đa chấn thương có CTSN phối hợp được thuthập vào nghiên cứu từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2005 tại khoa khám bệnh, bệnh viện Việt Đức Hà Nội.
– Không có tiền sử về bệnh tim mạch, hô hấp vμ tâm thần. Xác định bằng hỏi trực tiếp bệnh nhân hoặc ng-ời thân và thăm khám lâm sàng.
– Chưa được can thiệp ngoại khoa ở nơi khác.
– Chúng tôi loại trừ các bệnh nhân đã chết lâm sμng trước khi đến viện (mất tri giác, ngừng thở, ngừng tim); những bệnh nhân tử vong trong bệnh viện do một nguyên nhân khác không liên quan đến chấn thương và những bệnh nhân không đủ các tiêu chuẩn trên.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu:
Tiến hành nghiên cứu:
Bệnh nhân được khám vμ đánh giá tại phòng khám theo một mẫu phiếu in sẵn, bao gồm: một số đặc điểm dịch tễ chấn th-ơng, chẩn đoán lâm sàng, mạch, nhịp thở, điểm Glassgow, các xử lý ở tuyến trước, kết quả điều trị… các đánh giá này được thực hiện bởi một nhóm sinh viên Y5 đã được tập huấn từ trước. Ngay khi vào phòng khám bệnh nhân được lấy mạch, huyết áp, nhịp thở, rồi đánh giá:
2.2.1. Rối loạn hô hấp
Đếm nhịp thở trong 1 phút, nếu tần số thở ≤ 10 lμ thở chậm; ≥25 lần/phút lμ thở nhanh
Rối loạn tuần Hoàn
– Nhịp tim: nhịp chậm < 60 lần/phút hoặc nhịp nhanh >120 lần/phút
– Huyết áp động mạch: được đo bằng huyết áp kế thuỷ ngân.
Tụt HA: HA tối đa < 90mmHg
Cao HA: HA tối đa > 160mmHg, HA tối thiểu > 90mmHg
❖ Các đánh giá tri giác, hô hấp, vμ tuần hoàn đều thực hiện trước mọi can thiệp như: đặt đường truyền, sonde dạ dày, đặt nội khí quản, oxy liệu pháp… tại phòng khám.
❖ Tiếp tục theo dõi bệnh nhân cho đến khi bệnh nhân được ra viện hoặc tử vong. Nguyên nhân tử vong do các bác sỹ chẩn đoán được ghi nhận.
❖ Bệnh nhân quá nặng xin về cũng được coi là tử vong.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích