ĐÁNH GIÁ CÁC TỐN THƯƠNG THẦN KINH NGOẠI BIÊN TRÊN BỆNH NHÂN HỒI SỨC TÍCH cực BẰNG ĐIỆN CƠ
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu các đặc điểm dẫn truyền của các dây than kinh, điện cơ kim và nhận xét mối tương quan giữa các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên bệnh nhân có bệnh than kinh ngoại biên trong Kôi sức tích cực.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, mô tả và phân tích trên 68 bệnh nhân trong khoa Kôi sức tích cực, nằm điêu trị trên 14 ngày do các bệnh tram trọng (nhiễm trùng huyết hoặc suy đa cơ quan), khó cai máy thở, yếu hoặc liệt chi, giảm hoặc mất phản xạ gân cơ từ 9/2009 -10/2010.
Kết quả: Có 30 bệnh nhân bất thường cả vê lâm sàng và điện cơ, nam và nữ chiếm tỷ lệ tương đương nhau, tuổi trung bình là 59,4, có bệnh cảnh nhiễm trùng huyết (90%), suy đa cơ quan (30%), nhiễm trùng huyết và suy đa cơ quan (20%), yếu tứ chi (63,3%), mất phản xạ gân cơ (76,6%). Dẫn truyền than kinh vận động và cảm giác có thời gian tiêm kéo dài nhẹ, thời gian tiêm sóng F kéo dài nhẹ, tốc độ dẫn truyền chậm, biên độ vận động và cảm giác giảm và điện cơ kim có tăng điện thế đâm kim, điện thế tự phát, nhiêu ở cơ ngọn chi.
Kết luận: Bệnh đa dây than kinh trong Kôi sức tích cực chủ yếu là bệnh đa dây than kinh thể tổn thương sợi trục cấp tính, tỷ lệ tử vong cao. Không có biện pháp điêu trị đặc hiệu, chủ yếu là điêu trị nâng đỡ, điêu trị nhiễm trùng huyết hoặc hạn chếsử dụng thuốc.
ĐẶT VAN ĐÊ
Bệnh thần kinh ngoại biên trong hồi sức cấp cứu hay còn được gọi là bệnh đa dây thần kinh do mắc bệnh trầm trọng gây ra (Critical Illness Polyneuropathy – CIP), là tình trạng thoái hóa nguyên phát sợi trục của dây thần kinh vận động và cảm giác dẫn đến yếu cơ, khó cai máy thở, xảy ra trong đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) (6) . Có 3 yếu tố nguy cơ chính trong CIP là hô hấp hỗ trợ kéo dài, khó cai máy thở, và nhiêm trùng. Nghiên cứu của Bolton và cộng sự (1983) đã khẳng định về những triệu chứng và dấu hiệu trên bệnh nhân khó cai máy thở trong hồi sức tích cực là do ảnh hưởng trực tiếp bởi nhiêm trùng huyết hoặc suy đa cơ quan (4). Hơn nữa, S. Pati và cộng sự (2008) cho thấy có 25 – 85% bệnh thần kinh cơ trên bệnh nhân mắc bệnh trầm trọng nằm trong đơn vị hồi sức tích cực (5). Theo y văn ước lượng những bệnh nhân có những triệu chứng sau đây, tỷ lệ mắc CIP ở các đơn vị hồi sức tích cực cao hơn những bệnh nhân không có những triệu chứng sau là: bệnh nhân nằm ở ICU trên một tuần (68%), nhiêm trùng trên 10 ngày (63%), suy đa cơ quan (70%), sốc nhiêm trùng (76%), và vừa bị nhiêm trùng và suy đa cơ quan (82%) (7) (8).
Hiện nay, có nhiều tác giả nghiên cứu các tổn thương thần kinh ngoại biên bằng điện cơ. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu dùng điện cơ để phát hiện sớm bệnh thần kinh cơ trên bệnh nhân hồi sức. Việc chẩn đoán đúng, phát hiện sớm và có biện pháp chăm sóc tích cực giúp điều trị tốt cho bệnh nhân, cải thiện được dư hậu của các bệnh trầm trọng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 68 bệnh nhân từ 20 – 94 tuổi, được điều trị trên 14 ngày tại khoa hồi sức tích cực (ICU) và khoa nhiệt đới – Bệnh viện Chợ Rẫy từ 9/2009 – 10/2010.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân nhập khoa hồi sức tích cực do bệnh lý trầm trọng (nhiêm trùng huyết hoặc suy đa cơ quan), không có biểu hiện của bệnh đa dây thần kinh trước đó, nằm viện và điều trị trên 14 ngày, có biểu hiện lâm sàng của yếu hoặc liệt tứ chi và cơ hô hấp, khó cai được máy thở, giảm hoặc mất phản xạ gân cơ.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân mắc các bệnh lý về thần kinh – cơ, nhược cơ, ngộ độc, đái tháo đường, suy thận, trước khi được tiến hành nghiên cứu.
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả và phân tích. Các kết quả về điện cơ được đánh giá qua máy điện cơ 8 kênh (hãng Medtronic). Các thông số điện cơ về dẫn truyền thần kinh và điện cơ kim được cài đặt sẵn trên máy.
Các số liệu được thu thập theo mẫu và nhập, xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS. 12. 0. for Window (Statistical Package for Social Science 12. 0 for Window).
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất