Đánh giá chẩn đoán tế bào học qua chọc hút kim nhỏ, áp lam, sinh thiết tức thì trong ung thư vú
Các bênh vú nói chung vẫn còn là một trong những nguyên nhân hàng đầu ảnh hưởng tái sức khoẻ phụ nữ. Đặc biệt ung thư vú là một bênh gây tử vong hàng đầu trong số các ung thư ở phụ nữ tại bệnh viện K Hà nội [1]. Ung thư vú cũng là bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất ở nhiều nưác đặc biệt là Tây Âu và Hoa Kỳ [110].
Đến năm 2000, trên thế giái đã có trên 1 triệu ca mái mắc hàng năm. Theo Robert W.Mc Divitt [dẫn theo 88], tỉ lệ xuất hiện ung thư vú ở phụ nữ Mỹ trong nhóm có nguy cơ là 1/22. Thống kê của Hội ung thư Hoa kỳ [90] cho thấy nếu trong năm 1987, ở Mỹ chỉ có 180.000 trường hợp mới mắc hàng năm thì đến năm 2004 con số đó đã lên tới 217.000 trường hợp, trong đó có tới 40.000 bệnh nhân đang ở giai đoạn cuối.
Theo Sherman và Hossfeld thì tỉ lệ tử vong do ung thư vú rất cao ở một số nước như Anh, Đan mạch, Ai-xơ-len, Mỹ và Canada, tỉ lệ này từ 25 đến 30 trong 100.000 phụ nữ, trong khi tỉ lệ này ở một số nước như Nhật, Mêxicô và Vênêzuêla lại rất thấp, chỉ là 2 đến 5 trong 100.000 phụ nữ [dẫn theo 11].
Tại Việt Nam, theo ghi nhận ung thư ở Hà nội 1994 [2], ung thư vú có tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 21,8/100.000 dân, đứng đầu trong các loại ung thư ở phụ nữ và tại thành phố Hổ Chí Minh, tỷ lệ này là 17,1/100.000 dân, đứng thứ hai sau ung thư cổ tử cung [18].
Phát hiện, chẩn đoán sớm và chính xác ung thư vú là một bước vô cùng quan trọng để phòng chống căn bệnh này ở nhiều nước phát triển, thậm chí ở một số nước đang phát triển. Việc phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời vừa cải thiện thời gian sống thêm (có những trường hợp được phát hiện sớm thì coi như khỏi bệnh sau khi phẫu thuật) vừa giảm bớt chi phí cho điều trị và săn sóc người bệnh.
Trong điều kiên kinh tế Việt nam hiên nay, phát hiên sớm ung thư vú là một bước cực kỳ quan trọng.
Hiện nay, người ta đã phối hợp nhiều phương pháp chẩn đoán để phát hiện sớm ung thư vú: từ khám lâm sàng cho đến các xét nghiệm cận lâm sàng như chụp tuyến vú (mammography), tế bào học, sinh thiết tức thì (STTT).[5]
Kỹ thuật chẩn đoán tế bào học đã được sử dụng từ lâu và gần như là một bước không thể thiếu trong chẩn đoán các bệnh về vú [20]. Mặc dù còn một số hạn chế nhưng phương pháp chẩn đoán tế bào học vẫn được biết đến như là một phương pháp có giá trị chẩn đoán cao, thời gian chẩn đoán nhanh, hầu như không có biến chứng và giá thành rẻ. Những hạn chế của kỹ thuật này là tỉ lệ âm tính giả còn đáng chú ý vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan và tỉ lệ dương tính giả tuy thấp nhưng thường vẫn gặp trong các công trình nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
Để góp phần khắc phục những hạn chế của tế bào học đổng thời làm cho chẩn đoán bệnh ngày càng chính xác, đặc biệt khi cần cắt bỏ toàn bộ tuyến vú trong trường hợp các phương pháp chẩn đoán trước mổ có kết quả khác nhau hoặc không thể cho chẩn đoán xác định, đặc biệt khi bộ ba chẩn đoán (lâm sàng, chụp vú và tế bào học) có kết quả không phù hợp, kỹ thuật áp lam làm tế bào và sinh thiết tức thì (STTT) trong lúc mổ là vô cùng cần thiết.
Hơn nữa, ở nhiều trường hợp, chỉ trong lúc mổ mới có được bệnh phẩm giúp chẩn đoán ngay tổn thương là ác tính hay lành tính. Chẩn đoán áp lam làm tế bào và cắt lạnh trong mổ (sinh thiết tức thì) thực sự có giá trị chẩn đoán rất cao, đáp ứng được yêu cầu trên và được các phẫu thuật viên tin tưởng.
Chính vì vậy, áp lam tế bào và sinh thiết tức thì trong mổ được xem như hai phương pháp chẩn đoán trong mổ nhanh, đáng tin cậy và rất cần thiết.
Để nâng cao chất lượng chẩn đoán của tế bào học và hoàn thiên hơn phương pháp áp lam và sinh thiết tức thì trong mổ, tôi thực hiên đề tài: “Đánh giá chẩn đoán tế bào học qua chọc hút kim nhỏ, áp lam, sinh thiết tức thì trong ung thư vú” vái các mục tiêu:
1- Đánh giá kết quả chẩn đoán tế bào học qua chọc hút kim nhỏ và áp lam
2- Bước đầu tìm hiểu một số tiêu chuẩn định týp tế bào học tương ứng với một số týp mô bệnh học.
3- Đánh giá vai trò của sinh thiết tức thì trong lúc mo.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích