ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN TỒN LƯU Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN TỒN LƯU Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Bùi Thị Ngọc Yến*, Trần Thị Bích Hương*
TÓM TẮT
Mở đầu: Chức năng thận tồn lưu (Residual Renal Function, RRF) là chức năng thận còn lại ở bệnh nhân (bn) suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC), tham gia thải các chất có trọng lượng phân tử trung bình.
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Đánh giá chức năng thận tồn lưu, thể tích nước tiểu ở bn STMGĐC chưa điều trị thay thế thận, (2) So sánh giữa nhóm “còn RRF” (RRF ≥1ml/ph/1,73m2) và “mất RRF” (RRF <1ml/ph/1,73m2) về các biến chứng mạn tính của STMGĐC.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, tiền cứu, tiến hành tại khoa Nội Thận, bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 3 năm 2013, trên 102 bn STMGĐC. Các bn được đo RRF và đánh giá các biến chứng mạn tính của STMGĐC (tiêu hóa, tim mạch, thiếu máu, rối loại điện giải, thăng bằng kiềm toan).
Kết quả: Chức năng thận tồn lưu của 102 bn có trung vị 3,14ml/ph/1,73m2, 91 bn (89,21%) “còn RRF” (RRF ≥1ml/ph/1,73m2), 50% bn có thể tích nước tiểu >1000ml. Thể tích nước tiểu 24 giờ có tương quan với RRF (r = 0,59, r2 = 0,35, p <0,001), và thể tích nước tiểu ≥200ml tương ứng với RRF ≥1ml/ph/1,73m2. Nhóm bn “còn RRF” có tỷ lệ thiếu máu, nhu cầu truyền máu, suy tim, phù, tăng huyết áp và nguy cơ chạy thận nhân tạo cấp cứu thấp hơn so với nhóm “mất RRF”.
Kết luận: Hầu hết các bn STMGĐC đều thuộc nhóm “còn RRF”. Tuy còn ít, RRF là yếu tố cần quan tâm và bảo vệ để giảm thiểu các biến chứng ở bn STMGĐC, và tăng hiệu quả của các biện pháp điều trị thay thế thận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung SH, et al(2003) , “Association between residual renal function, inflammation and patient survival in new peritoneal dialysis patients”, Nephrol Dial Transplant, 18(3), p. 590–597.
2. Cooper BA, et al (2010), “A randomized, controlled trial of early versus late initiation of dialysis”, N Engl J Med, 363(7), p.609-619.
3. Jager DJD, et al (2011), “Association beweent time of referral and survival in the first year of dialysis in diabetics and the elderly”, Nephrol Dial Transplant, 26(2), p.652-658.
4. Konings CJ, Kooman JP, et al (2003), “Fluid status in CAPD patients in related to peritoneal transport and residual renal function: evidence from a longitudinal study”, Nephrol Dial Transplant, 18 (4), p.396 – 403.
5. Lang SM, et al (2001), “Preservation of residual renal function in dialysis patients: effects of dialysis-technique–related factors”, Peritoneal Dialysis International, 21(1), p. 52–57.
6. Menon MK, Nalmark DM, Bargman JM, et al (2001), “Longterm blood pressure control in a cohort of peritoneal dialysis patients and its association with residual renal function”, Nephrol Dial Transplant, 16 (11),p. 2207–2213.
7. Milutinovic J, Cutler R, Hoover P, Meijsen B, Scribner B (1975), “Measurement of residual glomerular filtration rate in the patient receiving repetitive hemodialysis”, Kidney Int, 8, p.185–190.
8. Moist LM (2000). “Predictors of Loss of Residual Renal Function among New Dialysis Patients”, J Am Soc Nephrol, 11(3), p.556 –564.
9. Penne EL, Weerd NC, et al (2011), “Role of Residual renal function in phosphate control and anemia management in chronic hemodialysis patients”, Clinical Journal of the American Society of Nephrology, 6(2), p. 281-289. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 165
10. Rocco M, Soucie JM, Pastan S, McClellan WM (2000), “Peritoneal dialysis adequacy and risk of death”, Kidney Int, 58(1),p. 446–457.
11. Termorshuizen F, Korevaar JC, Dekker FW, et al (2003), “Relative contribution of residual renal function compared with peritoneal clearance for patient survival and quality of life: an analysis of the NetherlandsCooperative Study on the Adequacy of Dialysis (NECOSAD)-2”, Am J Kidney Dis,
41(16),p. 1293–1302.
12. Nguyễn Thị Thanh Thùy, Tạ Phương Dung, Trần Thị Bích Hương (2012)”Vai trò của chức năng thận tồn lưu trên bn thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú.”, Tạp chí Y Học TPHCM, 16 (phụ bản 3), 2012, tr 175-182. 13. Timothy WM, Thomas HH (2007), “Uremia”, N Engl J Med,
357,p.1316-1325
14. Van Olden RW, van Acker BAC, Koomen GCM, Krediet RT, Ariz L(1995), “Time course of inulin and creatinine clearance in the interval between two hemodialysis treatments”, Nephrol Dial. Transplant,10(12),p. 2274 –2280
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất