Đánh giá đặc điểm bệnh lý và kết quả điều trị phẫu thuật sỏi niệu quản hai bên
Sỏi niệu quản 2 bên là bệnh nặng và còn khá thường gặp. Nghiên cứu nhăm đánh giá đặc điêm bệnh lý và kết quả điều trị phẫu thuật sỏi niệu quản hai bên. Kết quả cho thấy tuổi trung bình 48,3 gồm 45 nam và 50 nữ, có tiền sửbệnh tiết niệu 38,9%; đau thắt lưng 87,4%; nhiễm khuẩn tiết niệu 32,6%, thiểu niệu và vô niệu 13,9%. Có 99% phát hiện sỏi niệu quản 2 bên qua chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị, siêu âm thấy thận to và ứ nước 94,4%. Mổ 1 thì lấy sỏi 2 bên cho 85 BN và 10 trường hợp lấy sỏi 1 bên (thì 1). Không có tử vong sau mổ, biến chứng 4 trường hợp điều trị nội khoa ổn định, kết quả chung tốt 44,2%; trung bình 53,7%; xấu 2,1%. Ta có kết luận: phẫu thuật lấy sỏi 2 bên một thì có thể áp dụng tốt cho điều trị sỏi niệu quản 2 bên
Sỏi niệu quản (SNQ) hai bên khá thường gặp trong bệnh lý sỏi tiết niệu. Suy thận, vô niệu và nhiễm khuẩn huyết là hậu quả tất yếu nên cần được điều trị sớm và phải bảo tồn được thận, ngay cả khi thận đã có những biến đổi về tổ chức học [1,3,5,6]. Việc kết hợp điều trị nội – ngoại khoa có ý nghĩa hết sức quan trọng, phải điều trị tích cực tình trạng suy thận để chuẩn bị cho phẫu thuật, khi cần thiết phải chạy thận nhân tạo cả trước và sau mổ. Có nhiều phương pháp điều trị sỏi tiết niệu, nhưng ở Việt Nam hiện nay phẫu thuật vẫn chiếm một vị trí quan trọng. Với việc phẫu thuật SNQ hai bên, có nhiều vấn đề đặt ra: mổ cấp cứu hay mổ phiên; mổ một bên hay hai bên đồng thời, trường hợp nào dẫn lưu thận. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá đặc điểm bệnh lý và kết quả điều trị phẫu thuật sỏi niệu quản hai bên.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán là SNQ
2 bên, được phâu thuật và có hô sơ theo dõi, điều trị tại khoa Ngoại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 6/2004 đến 6/2009.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu trên 95 BN theo tiêu chuẩn lựa chọn, thông tin được ghi lại theo mẫu bệnh án thống nhất.
2.1. Chỉ tiêu nghiên cứu
2.1.1. Các chỉ tiêu lâm sàng, cận lâm sàng (Tiền sử, triệu chứng lâm sàng, các thăm dò hình ảnh
Chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị, chụp niệu đồ tĩnh mạch (nếu không chống chỉ định), siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, Xạ hình chức năng thận, và các xét nghiệm sinh hóa, huyết học.
2.1.2. Phương pháp điều trị
– Chỉ định mổ sỏi niệu quản hai bên: mổ cấp cứu hay mổ có kế hoạch.
– Chiến thuật, phương pháp mổ: Mổ một thì (lấy sỏi 2 bên 1 lần mổ), hay 2 thì (lấy sỏi từng bên, 2 lần mổ), có kèm dẫn lưu thận hay không, có thể đặt modelage niệu quản hay tạo hình.
2.1.3. Theo dõisau mổ
Phát hiện biến chứng: chảy máu, nhiễm khuẩn vết mổ, nhiễm khuẩn tiết niệu, suy thận sau mổ, rò rỉ nước tiểu qua vết mổ hoặc chân ống dẫn lưu.
2.2. Đánh giá kết quả
– Tốt: Lấy hết sỏi, không tai biến, biến chứng và Urê, creatinin máu trở lại bình thường.
– Trung bình: Lấy hết sỏi; có tai biến, biến chứng ở mức độ nhẹ phát hiện và xử trí kịp thời, kết quả khỏi. Urê và creatinin máu giảm so với trước mổ.
– Xấu: Không lấy được sỏi hoặc có tai biến, biến chứng nặng, chức năng thận không được cải thiện, bệnh nhân nặng xin về hoặc tử vong.
2.3. Xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê y học.
III. KÉT QUẢ
Từ tháng 6/2004 đến 6/2009, có 95 bệnh nhân SNQ 2 bên được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại bệnh viện Bạch Mai, tuổi trung bình 48,3 (lớn nhất là 79 tuổi, độ tuổi hay gặp nhất là từ 41 – 50 (37,9%), gồm 45 nam và 50 nữ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích