Đánh giá đáp ứng điều trị viêm gan virus b mạn tính có hbeag dương tính và hbeag âm tính bâng entecavir
Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng, tính an toàn của entecavir trong điều trị viêm gan virus B mạn tính có HBeAg (+) và HBeAg (-). Kết quả nồng độ HBV DNA đạt dưới ngưỡng phát hiện đạt sau 12, 24 và 48 tuần là 30,2%,73,8% và 87,3%. Tỷ lệ chuyển đảo huyết thanh ở nhóm HBeAg(+) là 16,3%, 20,4% và 49,9% sau 12, 24 và 48 tuần. Bình thường hoá men gan ALT là 57,90% 65,9% và 77% sau 12, 24 và 48 tuần . Tỷ lệ cải thiện mô bệnh học ở gan đạt kết quả cao sau 48 tuần điều trị 80% với nhóm HBeAg(+) và 60,7% với nhóm HBeAg(-). Các triệu chứng lâm sàng mệt mỏi, chán ăn cải thiện tốt sau 12, 24 và 48 tuần. Tác dụng phụ của thuốc ít gặp thường nhẹ, hay gặp nhất là đau đầu và viêm mũi họng. Kết luận: Entecavir là thuốc có khả năng ức chế sự nhân lên của virus tốt ở cả hai nhóm viêm gan virus B mạn tính có HBeAg(+) và HBeAg(-), bình thường hoá men gan và chuyển đảo huyết thanh HBeAg đạt tỷ lệ khá cao, cải thiện triệu chứng lâm sàng tốt, ít tác dụng phụ, nên lựa chọn là thuốc đầu tay trong điều trị viêm gan virus B mạn tính Từ khoá: viêm gan virus B; entecavir; sinh thiết gan
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) và các bệnh lý do HBV gây ra là vấn đề sức khỏe mang tính chất toàn cầu, đây là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất. Ước tính có đến gần một phần ba dân số thế giới (khoảng 2 tỷ người) có tiền sử nhiễm HBV, trong đó trên 350 triệu người nhiễm HBV mạn tính [7]. HBV không có khả năng gây độc tế bào trực tiếp như một số virus khác, tuy nhiên HBV được đánh giá là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ung thư gan. Tại Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HBV có HBsAg dương tính rất cao, trên 10-25% dân số và Việt Nam [1]. Do vậy điều trị virus viêm gan B là một vấn đề quan trọng góp phần làm giảm các biến chứng. Nhóm HBeAg âm tính xảy ra do hiện tượng đột biến vùng precore và core promoter [5]. Những bệnh nhân này có quá trình tiến triển tới xơ gan và ung thư gan nhanh hơn so với nhóm HBeAg dương tính, đáp ứng điều trị cũng khác nhau ở nhóm có HBeAg (+) và HBeAg (-) Các thuốc điều trị viêm gan virus B được chia làm hai nhóm chính, nhóm thứ nhất gồm các thuốc điều hòa miễn dịch (immuno modulators): Interferon- alpha, Thymosin-alpha 1 và vaccine điều trị (potential therapeutic vaccines). Nhóm thuốc thứ hai là dẫn chất đồng đẳng Nucleoside/tide [4]: Lamivudine, Adefovir dipivoxil, Entecavir, Telbivudine và một số thuốc đang trong thời gian thử nghiệm. Mỗi một loại thuốc đều có ưu điểm và nhược điểm riêng , Interferon-alpha (standard interferon) là dược phẩm đầu tiên được sử dụng trong điều trị viêm gan B mạn tính. Gần đây PEG-Interferon với ưu điểm thời gian bán hủy kéo dài, do vậy duy trì được nồng độ điều trị ổn định và giảm được số lần tiêm. Tuy nhiên Interferon-alpha và PEG-Interferon đều có giá thành tương đối cao và có nhiều tác dụng phụ, hơn thế nữa hiệu quả điều trị trên kiểu gen C và D kém hơn trên kiểu gen A và B[10]. Nucleoside/tide analogues dưới dạng viên uống, được hấp thu khá tốt và hầu như không gặp các biến chứng nguy hiểm là một ưu điểm so với Interferron. Do vậy để ức chế sự nhân lên của HBV một cách bền vững, khống chế nồng độ HBV-DNA không tăng cao trở lại thì phải dùng thuốc với thời gian tương đối dài, và đột biến kháng thuốc tăng dần theo thời gian[6]. Entecavir thuộc nhóm nucleoside analogues là thuốc tương đối mới, có hiệu quả điều trị cao được cơ quan FDA ( Food and Drugs Administration ) của Hoa Kỳ cho phép điều trị viêm gan virus B mạn tính đầu năm 2005. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào các tiêu chí lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó cải thiện mô bệnh học được xem là mục tiêu chính trong điều trị lâu dài của thuốc. Ở Việt Nam hiện nay có rất ít nghiên cứu đánh giá đáp ứng mô bệnh học trên sinh thiết gan trước và sau điều trị CHB. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hai mục tiêu. Đánh giá hiệu quả Entecavir trong điều trị viêm gan virus B mạn tính có HBeAg(+) và HBeAg(-) qua các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở các thời điểm 12, 24 tuần và 48 tuần và mô bệnh học sau 48 tuần. Và tìm hiểu tác dụng không mong muốn của Entecavir.
II. Đối Tượng Và Phương Pháp
Đối tượng: Nghiên cứu 126 bệnh nhân có chẩn đoán viêm gan virus B mạn tính dựa trên khám lâm sàng, cận lâm sàng và sinh thiết gan tại khoa tiêu hoá bệnh viện Bạch mai từ tháng 7/2008 đến tháng 7/2009. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân viêm gan B mạn tính trên 16 tuổi, HBsAg dương tính trên 6 tháng, nồng độ ALT tăng cao > 2 lần mức bình thường tăng liên tục hoặc ngắt quãng , nồng độ HBV- DNA > 5 logcopies/ml với nhóm HBeAg (+) nồng độ HBV-DNA > 4 logcopies/ml với nhóm HBeAg (-), sinh thiết gan làm mô bệnh học có tổn thương gan mạn tính đánh giá theo thang điểm Knodell sửa đổi. Loại trừ bệnh nhân có tiểu cầu thấp < 90.000/mm3, Creatinin huyết thanh > 1,5 lần so với mức bình thường, bệnh nhân nghiện rượu, có biểu hiện xơ gan mất bù , đồng nhiễm với viêm gan virus C, HIV, loại trừ các bệnh nhân có điều trị các thuốc kháng virus khác, thuốc điều hòa miễn dịch, corticoid trong vòng 6 tháng trước điều trị, phụ nữ có thai, đang cho con bú. Thuốc sử dụng Entecavir biệt dược Baraclude của công ty dược phẩm BMS( Bristol-Myers- Squibb), liều lượng cách dùng 0,5 mg/ngày, uống cách xa bữa ăn 2 giờ. Đánh giá trước và sau 12 tuần điều trị các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng bao gồm ALT, AST, Bilirubin, Creatinin, HBeAg và Anti-HBe và nồng độ HBV DNA.
Phương pháp: Kháng nguyên HBeAg và Anti-HBe xác định bằng ELISA, nồng độ HBV-DNA xác định bằng Real-time PCR, đơn vị tính logcopies/ml. ALT, AST, Creatinin được xác định tại khoa hoá sinh bệnh viện Bạch mai. Sinh thiết gan được tiến hành tại khoa tiêu hóa bệnh viện Bạch mai, đánh giá mô bệnh học tại khoa giải phẫu bệnh bệnh viện Bạch mai theo phân loại Knodell sửa đổi với chỉ số viêm có giá trị từ 0 đến 18 điểm, chỉ số xơ có giá trị từ 0 đến 6 tùy mức độ từ nhẹ đến nặng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích