Đánh giá hiệu quả bảo vệ của võng gắn lưới tẩm hoá chất diệt muỗi trong phòng chố ng sốt rét rừng tại tỉnh Ninh Thuận

Đánh giá hiệu quả bảo vệ của võng gắn lưới tẩm hoá chất diệt muỗi trong phòng chố ng sốt rét rừng tại tỉnh Ninh Thuận

Phòng chống sốt rét (SR) cho người dân có hoạt động trong rừng rất khó khăn và tốn kém. Đề tài đánh giá hiệu quả của võng gắn lưới tẩ m hoá chất được thực hiện tạ i Ninh Thuận năm 2005, 2006. Mục tiêu: (1) Điều tra thực trạng SR ở nhóm người có các hoạt động liên quan đến rừng, (2) đánh giá hiệu quả phòng chống SR của sử dụng võng gắn lưới tẩ m hoá chất. Phương pháp:Dịch tễ học mô tả và can thiệp. Kết quả:Tỷ lệ mắ c SR ở nhóm dân có các hoạt động trong rừng rất cao: SRLS: 15,5%, lách sưng: 7,0%, KSTSR: 13,3%, KST lạnh: 74,1%. Tuổi, giới tính, nhóm dân tộc, trình độ văn hoá thấp, không ngủ màn, nhà ở tạm, thu nhập thấp là các yếu tố nguy cơ gây nhiễm SR cao, đặc biệt đối tượng đi làm và ngủ lại trong rừng/ rẫy có nguy cơ nhiễm SR cao gấp 3 lần. Sau 2 năm sử dụng võng gắn lưới tẩmhóa chất, tỷ lệ người mắc SR giảm mạnh (31% xuống 14% đối với tỷ lệ hiện mắc và 274/1000 dân xuống 161/1000 dân đối với tỷ lệ mắc mới). Không sử dụng võng tẩm tỷ lệ mắc SR giảm chậm hơn. Mật độ Anophelesở nhóm được cấp võng tẩm giảm rõ trong nă m thứ 2 và hiệu lực tồn lưu của lưới tẩm hóa chất giảm dần sau 2 năm sử dụng. Kết luận:Võng gắn lưới tẩ m hoá chất có hiệu quả bảo vệ phòng chống SR, sau 2 năm sử dụng, có thể áp dụng cho các nhóm dân đi rừng, ngủ rẫy trong vùng SR lưu hành.

Phòng chố ng sốt rét (SR) cho người dâ n sống và làm việc ở khu vực rừ ng núi không chỉ là một thách thứ c riêng với Việt Nam mà còn với nhiề u quốc gia khác.
Tình hình sốt rét hiện nay ở Việt Nam tuy ổn định nhưng vẫn còn là mối đe dọ a sức khỏe đối
với người dân ở vùng rừ ng núi, vùng sâu, vùng xa, nguy cơ dịch SR vẫ n tiềm ẩ n, đặ c biệt là ở những nhóm người có cuộ c sống và hoạt độ ng liên quan đế n rừng như làm rẫy, phá rừng, khai thác sả n phẩm rừ ng và dân di cư tự do. SR ở những đối tượng nà y rất phức tạp và khó quả n lý cũng như áp dụ ng cá c biện phá p phòng chố ng, thuật ngữ “sốt rét rừng” ám chỉ bệ nh SR có liê n quan đế n những đối tượ ng trên. Đã có nhiều nghiê n cứu á p dụ ng cá c biện pháp khácnhau trong phò ng chố ng “sốt rét rừng”, tuy nhiên hiệu quả can thiệp hạn chế và và chi phí tốn kém. Từ vấn đề nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài: Đánh giá hiệu quả bảo vệ của võng gắn lưới tẩm hoá chất diệt muỗi trong phòng chố ng sốt rét rừng tại tỉnh Ninh Thuận,
2005 – 2006 với hy vọng biệ n phá p can thiệp mới này sẽ làm giảm tỷ lệ mắ c và chết do SR cho những người dâ n thường xuyên sống và làm việ c trong rừ ng, rẫ y với mục tiêu:
1. Điều tra thực trạng sốt rét ở nhó m người có hoạt độ ng trong rừ ng tại tỉnh Ninh Thuận.
2. Đánh giá hiệu quả bả o vệ, phòng chố ng sốt rét của việc sử dụng võng gắ n lưới tẩm hoá chất diệt muỗi cho nhóm dâ n nói trê n tại khu vực nghiê n cứ u.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment