Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson

Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson

Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson.Số lượng người cao tuổi ở Việt Nam và trên thế giới đang tăng lênnhanh chóng nhờ sự tiến bộ của y học và các ngành khoa học khác. Tại ViệtNam, năm 2009 theo tổng điều tra dân số thì có 7,72 triệu người cao tuổichiếm 9,0% dân số [1]. Chỉ số già hóa ngày càng gia tăng, tại Việt Nam năm1999 là 24%, năm 2009 là 36% dự báo đến năm 2019 là 50% [2]. Xu hướnggià hóa này đang đặt ra những thách thức vô cùng to lớn, đặc biệt là sự giatăng các căn bệnh có liên quan đến lão hóa và thoái hóa thần kinh. Trong đócó bệnh Parkinson – một trong những bệnh thoái hóa thần kinh trung ươngthường gặp nhất.Cấu trúc não tổn thương chính trong bệnh Parkinson là liềm đen.Những tổn thương này gây ra những triệu chứng đặc trưng như giảm vậnđộng, run khi nghỉ, cứng, rối loạn tư thế [3],[4],[5]. Bên cạnh các triệu chứngvận động, bệnh nhân Parkinson có thể bị nhiều các rối loạn không thuộc vậnđộng như giảm chức năng nhận thức, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn giấcngủ, trầm cảm, rối loạn tiêu hóa, rối loạn tiểu tiện, đau, dị cảm…[6],[7],[8].Bệnh Parkinson tuy không phải là một bệnh ác tính nhưng lại ảnh hưởngrất lớn đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Trong đó những triệuchứng rối loạn vận động là nguyên nhân chính gây tàn tật đối với bệnh nhânParkinson. Những triệu chứng này xuất hiện trong quá trình phát triển của bệnhvà đã được khẳng định là có ảnh hưởng rõ rệt đến chất lượng cuộc sống củabệnh nhân [8],[9]. Tình trạng nghèo nàn trong các động tác có liên quan đếnnguy cơ bị ngã, chấn thương cao hơn [10]. Rối loạn tư thế sẽ làm ảnh hưởngđến hoạt động thể chất và các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân Parkinson Sự mất cân bằng và rối loạn vận động cũng có liên quan chặt chẽ với tình trạng khuyết tật trong bệnh Parkinson [12]. Theo Shulman, làm chậm và phòng ngừa các rối loạn vận động nên là ưu tiên hàng đầu của quản lý lâm sàng ở bệnh Parkinson. Nếu chỉ điều trị bằng dược lý thì tình trạng rối loạn vận động vẫn tăng lên ở bệnh nhân Parkinson khi bệnh tiến triển [13]. Do đó, việc sử dụng các phương pháp phục hồi chức năng trong điều trị bệnh Parkinson là rất cần thiết.
Tập luyện đã được chứng minh là có hiệu quả cải thiện các sức mạnh, thăng bằng, tốc độ đi và chất lượng sống của bệnh nhân Parkinson. Tuy nhiên, phương thức và cường độ tập luyện như thế nào là tối ưu vẫn còn chưa được thống nhất [14]. Hiện có rất ít nghiên cứu so sánh hiệu quả của các chương trình tập có cường độ khác nhau. Margaret Schenkman và CS (2018) chỉ ra
rằng chương trình tập luyện với cường độ cao (70-80% nhịp tim tối đa) có tác dụng làm chậm quá trình tiến triển bệnh khi so sánh với chương trình tập luyện cường độ trung bình (60-65% nhịp tim tối đa) [15].
Lee Silverman Voice Treatment (LSVT) BIG là chương trình tập bắt nguồn từ chương trình trị liệu âm ngữ LSVT LOUD, bao gồm các bài tập có cường độ cao, biên độ vận động lớn, đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị cho bệnh nhân Parkinson [16].
Hiện nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về đánh giá hiệu quả của tập luyện lên khả năng vận động của bệnh nhân Parkinson. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu ― Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson ” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến hiệu quả của chương trình tập LSVT- BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson
Chƣơng 1 Đánh giá hiệu quả của chương trình tập LSVT-BIG trong phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân Parkinson
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử bệnh Parkinson
Bệnh Parkinson là một tình trạng bệnh lý được biết đến từ thời cổ đại. nó được đề cập đến trong hệ thống y tế Ấn Độ cổ đại Ayurveda dưới cái tên Kampavata. Trong y văn phương Tây, bác sĩ Galen mô tả ―bệnh rung lắc‖ vào năm 175 sau công nguyên [17], [18].
Tuy nhiên cho đến năm 1817, James Parkinson là người đầu tiên mô tả bệnh này với các triệu chứng run tay, cứng, vận động khó. Ông gọi bệnh này là bệnh liệt rung (Shaking palsy). Bài viết công bố có tựa đề ―Một bài tiểu luận về liệt rung‖. Khoảng 60 năm sau khi bài luận của James Parkinson được công bố, năm 1886, một nhà thần kinh học người Pháp tên Jean Martin Charcot xác định đây không phải bệnh liệt mà là một bệnh tuổi già. Ông là người đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của bài luận do James Parkinson viết và đề xuất gọi tên là bệnh Parkinson [17].
Năm 1912, Lewy đã mô tả các thể vùi trong bào tương của tế bào thần kinh ở bệnh nhân Parkinson [17]. Năm 1919, Konstantin Tretiakoff báo cáo rằng substantia nigra (tên La tinh của liềm đen) là cấu trúc não chính bị ảnh hưởng, nhưng phát hiện này không được chấp nhận rộng rãi cho đến khi nó được xác nhận bởi các nghiên cứu khác do Rolf Hassler xuất bản năm 1938 [17].
Đến những năm 60 của thế kỷ XX người ta chú ý đến chất dopamine ở thể vân và vai trò dẫn truyền thần kinh của chất này. Mức dopamine thấp là nguyên nhân chủ yếu gây ra các rối loạn của bệnh. Từ đó cơ chế bệnh sinh của bệnh Parkinson ngày càng được sáng tỏ: các triệu chứng của bệnh xác định chủ yếu là do tổn thương các tế bào thần kinh của hệ thống dopamine ở
não, đặc biệt là các tế bào ở thể vân và liềm đen. Cũng trong những năm 1960, lần đầu tiên thuốc Levodopa được dùng để điều trị bệnh [19] 5 Kể từ khi nghiên cứu năm 1960 được công bố, công tác phòng và điều trị bệnh đã có được nhiều tiến bộ. Mặc dù thực tế vẫn chưa điều trị được tận gốcbệnh, nhưng những nhờ tiến bộ đạt được đã kiểm soát được bệnh và giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh.
1.2. Dịch tễ học bệnh Parkinson Trong các bệnh lý thoái hóa của hệ thần kinh trung ương, bệnh
Parkinson là một bệnh hay gặp, nam giới mắc nhiều hơn nữ giới [20]. Tuổi khởi phát dao động trong khoảng từ 20 đến 80 tuổi, tuy nhiên thường gặp ở người trên 60 tuổi, với xu hướng tăng dần theo tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh Parkinson dao động trong khoảng từ 1% đến 2% và tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là 0,045% đến 0,19%. Với những người trên 70 tuổi, tỷ lệ hiện mắc là 5,5%, tỷ lệ mới mắc hàng năm là 1,2% tăng hơn hẳn so với lứa tuổi khác [21],[22],[23].
1.3. Cơ sở giải phẫu bệnh
1.3.1. Các tổn thương giải phẫu [24]
Ngày nay với sự hiểu biết sâu hơn về cơ chế bệnh sinh, người ta thấy các cấu trúc có sắc tố ở thân não và các nhân xám trung ương đều bị tổn thương ở mức độ khác nhau. Các tổn thương cụ thể bao gồm:
– Liềm đen: luôn luôn có sự tổn thương hai bên với hiện tượng mất các sắc tố, sự thoái hóa liềm đen ưu thế ở vùng đặc (zona compacta) và thấy rõ hơn ở giai đoạn muộn. Sự biến mất của các quần thể tế bào thần kinh đôi khi rất rõ rệt kèm theo sự mất sắc tố của các tế bào chứa hắc tố melamin.
– Tổn thương các hạch giao cảm: các nhân giao cảm này cũng bị tổn thương tương tự liềm đen và thể vân. Điều này giải thích hiện tượng rối loạn thần kinh thực vật như rối loạn nhu động dạ dày, thực quản và các tạng nói chung.
– Chất lưới ở thân não: rất ít khi tổn thương.
– Các nhân xám: các nhân xám ở nền não bị tổn thương ở mức độ ít nhiều, nhưng tại nhân bèo nhạt và nhân bèo sẫm có hiện tượng mất sắc tố rõ

Leave a Comment