Đánh giá hiệu quả của gây tê ngoài màng cứng để giảm đau sau mổ tại bệnh viện Đại Học Y Hà Nội
Đau sau mổ từ lâu đã được biết đến như một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hồi phục của bệnh nhân. Đau không được điều trị tốt không chỉ góp phần gây nên rối loạn chức năng các cơ quan mà còn làm tăng nguy cơ trở thành đau mạn tính dù đã lành vết mổ.
Bệnh viện ĐHYHN, là một trong số rất ít nơi thực hiện giảm đau sau mổ một cách hệ thống. Tất cả các bệnh nhân phẫu thật lớn đều được chống đau tích cực. Trong số đó có rất nhiều bệnh nhân được giảm đau bằng phương pháp gây tê NMC. Để tiếp tục nâng cao chất lượng chống đau cũng như đánh giá, rút kinh nghiệm khi áp dụng kỹ thuật này chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Đánh giá hiệu quả giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê ngoài màng cứng áp dụng tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân trên 18 tuổi, được phẫu thuật tại bệnh viện ĐHY Hà Nội, có chỉ định và đồng ý giảm đau sau mổ bằng gây tê NMC.
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân có tiền sử nghiện hoặc phụ thuộc thuốc giảm đau nhóm morphine, các bệnh nhân có khó khăn trong giao tiếp và các trường hợp không thu thập đủ số liệu hoặc thông tin không rõ ràng.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, tiến cứu thực hiện tại bệnh viện ĐHYHN từ tháng 9/2008 đến tháng 5/2009
Tiến hành nghiên cứu
Trước mổ:
– Tuỳ loại phẫu thuật bệnh nhân được gây tê NMC để mổ hoặc gây tê NMC sau đó gây mê nội khí quản.
– Thuốc tê dùng cho tất cả các bệnh nhân là: Marcain 0,1%, Fentanyl 1 – 2 µg/ml, Adrenalin 1/200000.
Sau mổ:
– Theo dõi liên tục các thông số: nhịp tim, huyết áp, nhịp thở, SpO2 bằng monitor trong ngày đầu sau mổ và 4 – 6 giờ/lần những ngày sau.
– Mức độ đau được đánh giá bằng điểm VAS (Visual Analog Scale) khi nghỉ và khi vận động tại các thời điểm: 6 giờ, 24 giờ, 48 giờ, 72 giờ và sau ngừng thuốc 6 giờ. VAS ≤ 4 được coi là giảm đau đầy đủ.
– Thuốc tê được truyền liên tục bằng bơm tiêm điện ngay từ trong mổ. Tốc độ ban đầu là 3 – 5 ml/giờ sau đó được điều chỉnh tăng mỗi lần 1ml/giờ sau khi bơm trực tiếp 3 – 5ml nếu bệnh nhân có VAS > 4. Nếu có các tác dụng không mong muốn thì giảm 1ml/giờ 1 lần và dùng thêm các thuốc giảm đau khác nếu cần. Ngừng ngay thuốc tê và xử trí cấp cứu nếu nhịp thở < 8, huyết áp tụt trên 20% so với huyết áp trước khi gây tê.
– Ghi nhận các tác dụng không mong muốn trong suốt quá trình giảm đau.
– Mức độ hài lòng do bệnh nhân tự đánh giá theo 4 mức: rất hài lòng, hài lòng, chấp nhận được, không hài lòng.
3. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng chương trình SPSS 13.0. Test ANOVA được sử dụng để so sánh các giá trị trung bình. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê ngoài màng cứng (NMC) áp dụng tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội (ĐHYHN). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 131 bệnh nhân phẫu thuật tại bệnh viện ĐHYHN được đặt catheter NMC và truyền thuốc tê liên tục để giảm đau sau mổ, theo dõi, đánh giá điểm đau (VAS) và các tác dụng không mong muốn trong 72 giờ sau mổ. Kết quả: 91,6% bệnh nhân có VAS ≤ 4 cả khi nghỉ và khi vận động tại tất cả các thời điểm nghiên cứu. Tốc độ truyền thuốc tê (Bupivacain 0,1% + Fentanyl 1 – 2 µg/ml) là 5,9 ± 1,1 ml/giờ, không có sự khác biệt giữa các loại phẫu thuật. 38,9% bệnh nhân gặp các tác dụng không mong muốn, chủ yếu ở mức độ nhẹ và vừa. Không xảy ra các tai biến nghiêm trọng như suy hô hấp, tụt huyết áp. Kết luận: gây tê NMC là phương pháp giảm đau an toàn và hiệu quả, có thể áp dụng cho nhiều loại phẫu thuật.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích