Đánh giá hiệu quả của khí cụ giữ khoảng, nới khoảng gắn chặt sau khi nhổ răng 5 sữa sớm
Sự nghiêng trục và di chuyển răng sau khi nhổ sớm răng 5 sữa làm thiếu chỗ mọc của răng 5 vĩnh viễn. Mục tiêu: (1). Đánh giá mức độ thu hẹp khoảng do sự nghiêng trục và di lệch răng sau khi nhổ răng 5 sữa sớm. (2). Đánh giá hiệu quả điều trị của khí cụ giữ khoảng và nới khoảng gắn chặt sau khi nhổ răng 5 sữa sớm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu can thiệp trên 31 bệnh nhân có răng 5 sữa bị nhổ sớm. Phân tích phim và mẫu để đánh giá mức độ thu hẹp khoảng do nghiêng trục và di lệch răng, chỉ định giữ khoảng cho trường hợp đủ chỗ cho răng 5 vĩnh viễn và nới khoảng cho trường hợp không đủ chỗ. Kết quả: khoảng bị mất 6,42 ± 0,62 mm và 3,78 ± 0,71 mm tương ứng với nhổ răng 5 sữa trước và sau khi mọc răng 6. Kết quả của khí cụ giữ khoảng gắn chặt đạt 92,9% tốt và 7,1% khá, của khí cụ nới khoảng gắn chặt đạt 88% tốt, khá 8% và kém là 4%. Kết luận: sau khi nhổ răng 5 sữa sớm, các răng kế cận sẽ nghiêng trục và di lệch vào khoảng mất răng. Khí cụ giữ khoảng và nới khoảng gắn chặt rất có hiệu quả trong việc duy trì khoảng và lấy lại khoảng đã bị thu hẹp.
Trục thân răng là một yếu tố quan trọng đối với sự ổn định khớp cắn. Khi trục thân răng thay đổi thì răng sẽ bị nghiêng và di lệch. Sau khi răng 5 sữa bị nhổ sớm, các răng kế cận sẽ bị nghiêng trục và di lệch vào khoảng mất răng, đặc biệt là răng 6. Điều này làm mất khoảng của răng 5 vĩnh viễn, sai lạc khớp cắn, giảm chiều dài và biến dạng cung răng [1; 4]. Khí cụ gắn chặt được sử dụng để kiểm soát khoảng của răng 5 sữa sau khi nhổ cũng như để di chuyển răng nhằm tạo lại khoảng (nới khoảng) khi đã có sự nghiêng trục thân răng và thu hẹp khoảng mất răng. Mục tiêu của đề tài:
1. Đánh giá mức độ thu hẹp khoảng do sự nghiêng trục và di lệch răng sau khi nhổ răng 5 sữa sớm .
2. Đánh giá hiệu quả điều trị của khí cụ giữ khoảng và nới khoảng gắn chặt sau khi nhổ răng 5 sữa sớm.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 31 bệnh nhân đến khám và điều trị tại khoa Nắn hàm, viện Răng Hàm Mặt quốc gia (2002 – 2003). Lứa tuổi: 6 – 15 tuổi.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu can thiệp.
Hỏi bệnh và khám lâm sàng để đánh giá thời điểm nhổ răng sữa, tình trạng răng miệng. Lấy khuôn và đổ mẫu nghiên cứu bằng vật liệu nha khoa chuyên dụng, mẫu phải ghi lại đủ các răng và phần mềm liên quan. Chụp phim X quang, gồm phim toàn cảnh (panorama) và phim sau huyệt ổ răng.
Phân tích trên mẫu và phim X quang để đánh giá: Trục thân răng của răng 6 và răng 4 trên cung hàm, kích thước khoảng của răng 5 và mức độ thu hẹp khoảng, tình trạng của mầm răng 5 vĩnh viễn [3; 8].
Căn cứ vào trục của các răng, tình trạng cung răng, tình trạng khoảng còn lại và tương quan của nó với kích thước của răng 5 vĩnh viễn để chỉ định giữ khoảng hay nới khoảng. Khi đã có sự nghiêng trục răng kế cận làm thu hẹp khoảng, bệnh nhân sẽ được sử dụng khí cụ chỉnh nha gắn chặt để di chuyển răng và tạo lại khoảng cho răng 5 vĩnh viễn:
Gắn khâu răng 6 và răng 4. Răng 4 (và các răng khác nếu cần thiết) có thể được gắn mắc cài (bracket) có rãnh kích thước 0,022 × 0,028 inch,vị trí gắn ngang mức giữa mặt ngoài thân răng. Dùng dây thép có thiết diện chữ nhật, kích thước 0,019 × 0,025 inch, và lò xo đẩy để di chuyển răng, dựng lại trục thân răng và tạo lại khoảng cho răng 5 vĩnh viễn [7; 9].
Bệnh nhân được khám và điều chỉnh tác dụng của khí cụ 2 tuần một lần. Khi trục các răng đã thẳng, khoảng đủ cho răng 5 vĩnh viễn thì lò xo đẩy được thay bằng ống nhựa cứng để duy trì khoảng và trục răng.
Trường hợp răng 5 sữa đang có chỉ định nhổ sớm hoặc đã nhổ nhưng khoảng vẫn đủ cho răng 5 vĩnh viễn, trục răng 4 và răng 6 vẫn tốt, bệnh nhân được sử dụng khí cụ gắn chặt để giữ khoảng:
Khâu răng 6. Dây thép thiết diện tròn đường kính 0,036 inch, uốn từ khâu đến mặt xa răng 4, kích thước trong ngoài vòng dây khoảng 8 mm (đủ cho răng 5 vĩnh viễn mọc) và dây cách bờ lợi khoảng 1 mm. Vòng dây được hàn vào khâu, đánh bóng và lắp cho bệnh nhân [4; 5].
Bệnh nhân được khám và điều chỉnh tác dụng của khí cụ 2 tuần một lần.
Bệnh nhân được chụp phim, lấy khuôn và đổ mẫu sau 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Phân tích trên mẫu và phim để đánh giá mức độ nghiêng trục thân răng, hiệu quả điều trị của khí cụ. Kết quả điều trị được chia làm 3 mức độ: Tốt, khá và kém.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích