ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI XOANG CHỨC NĂNG TRONG ĐIỀU TRỊ NHỨC ĐẦU DO ĐIỂM TIẾP XÚC
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI MŨI XOANG CHỨC NĂNG TRONG ĐIỀU TRỊ NHỨC ĐẦU DO ĐIỂM TIẾP XÚC
Lâm Huyền Trân*
TÓM TẮT
Nhức đâu do điểm tiếp xúc là nhức đâu do niêm mạc trong mũi tiếp xúc với nhau -thường nhất là tiếp xúc giữa cuốn mũi và vách ngăn gây nên đau nhức theo phân bố của thân kinh sinh ba.
Mục tiêu: Đánh giá lợi ích của điều trị ngoại khoa ở những bệnh nhân nhức đâu do điểm tiếp xúc trên nội soi và phim CT Scan, và thang điểm đau VAS trước và sau mổ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân nhức đâu do điểm tiếp xúc là những bệnh nhân nhức đâu và có điểm tiếp xúc trên hình ảnh học và giảm nhức đâu rõ rệt khi đặt thuốc tê tại chỗ lên điểm tiêp xúc.
Tất cả bệnh nhân đều đựơc phẫu thuật nội mũi xoang tách điểm tiếp xúc có hoặc không kèm phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn. Đánh giá điểm nhức đâu trước và sau mổ bằng bảng câu hỏi. Phỏng vấn bệnh nhân về cường độ của đau dựa trên thang điểm VAS. Kiểm tra bằng hình ảnh nội soi và chụp CTScan trước và sau mổ.
Kết quả và kết luận: Trong khoảng thời gian từ 1/ 2007 đến tháng 12/ 2009, tại khoa tai mũi họng bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Ho Chí Minh và bệnh viện Chợ Rẫy, 48 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. Trong số đó có 64,58 % là nữ. Độ tuổi trung bình là 34,5 ± 10,02 (tuổi nhỏ nhất là 17 tuổi lớn nhất là 58). Thời gian theo dõi trung bình là 18 ± 5,8 tháng (ít nhất là 12 tháng, nhiều nhất là 38 tháng). Tân suất nhức đâu giảm từ 18,5 xuống còn 6,2 ngày / tháng (p<0,05), mức độ nhức đâu giảm từ 8,5 điểm VAS xuống còn 3,58 điểm VAS (p< 0,05). 41,66 % bệnh nhân hêt nhức đâu, 43,74 % giảm nhức đâu (16,66% giảm cường độ nhức đâu, 14,58 % giảm tan suất nhức đâu, 12,5% vừa giảm về cường độ vừa giảm về tan suất nhức đâu), 14,58 % không hêt nhức đâu.
MỞ ĐẦU
Nhức đầu là một trong những triệu chứng thường gặp khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh ở nhiều chuyên khoa trong đó có tai mũi họng. Stammberger và Wolf đã phân chia nhức đầu thành 3 nhóm:
1/ nhức đầu đặc hiệu có liên quan đến các bất thường vùng mũi xoang chẳng hạn như nhức đầu do viêm hoặc nhức đầu do chấn thương áp lực .
2/ nhức đầu không có nguyên nhân do xoang bao gồm dị ứng theo mùa, nhức đầu vận mạch, đau thần kinh, nhức đầu căn nguyên mạch máu.
3/ nhức đầu mà căn nguyên do xoang không rõ ràng đây là 1 thách thức đối với bác sĩ tai mũi họng.
Nhức đầu do điểm tiếp xúc được xếp vào loại nhức đầu có căn nguyên bất thường giải phẫu mũi xoang. Năm 1988, Stanmberger H, Wolf đã đưa ra khái niệm nhức đầu do chất P. Chất P là 1 trong các neuropeptides có trong niêm mạc mũi, chất P có vai trò dân truyền các xung động đau lên vỏ não. Năm 1998, Parsons(1), báo cáo kết quả 34 trường hợp nhức đầu do điểm tiếp xúc được điều trị bằng phẫu thuật với kết quả tốt.
Tại Việt Nam, khái niệm nhức đầu do điểm tiếp xúc vần còn nhiều tranh cãi, 1 số bệnh viên, khoa tai mũi họng đã thực hiện phẫu thuật ở bệnh nhân nhức đầu do điểm tiếp xúc bước đầu cho kết quả khả quan(4).
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1/ Đặc điểm lâm sàng của nhức đầu do điểm tiếp xúc
2/ Hiệu quả của phẫu thuật nội soi mũi xoang tách điểm tiếp xúc
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân có triệu chứng nhức đầu đến khám tại phòng khám tai mũi họng tại bệnh viện ĐHYD và Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1/2007 đến tháng 12 năm 2009.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu có can thiệp lâm sàng.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: bệnh nhân được khai thác bệnh sử nhức đầu, sau đó khám lâm sàng để tìm các nguyên nhân thực thể. Nội soi mũi và chụp CT mũi xoang tìm điểm tiếp xúc trong mũi.
Tất cả bệnh nhân đều được làm test điểm tiếp xúc bằng thuốc co niêm mạc. Đặt que tẩm thuốc tê co niêm mạc tại chỗ vào vùng tiếp xúc. Nếu sau khi đặt bệnh nhân giảm nhức đầu có thể chẩn đoán nhức đầu do điểm tiếp xúc. Ngoài ra, khám mũi qua nội soi và chụp CTscan cũng giúp chẩn đoán điểm tiếp xúc.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất