ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT TOT TRONG ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT Ở PHỤ NỮ

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT TOT TRONG ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG KIỂM SOÁT Ở PHỤ NỮ

 Tiêu không kiểm soát khi gắng sức là sự chảy nước tiêu không theo ý muốn khi gắng sức (ho hay hắt hoi) mà không có tăng áp lực cơ chóp bàng quang(2). Điều trị phẫu thuật trong tiểu không kiềm soát ở phụ nữ đã có nhiều thay đổi trong những năm vừa qua với phương pháp đặt băng nâng niệu đạo không áp lực(12). Miếng băng nâng niệu đạo giúp tiêu có kiểm soát nhờ tăng chức năng của niệu đạo khi áp lực ổ bụng tăng và có sự kết hợp giữa tình trạng đi xuống của cổ bàng quang và niệu đạo gần. Karram và cộng sự(6) đã tìm ra phương pháp đặt dải băng ở âm đạo không áp lực (T-V-T) là kỹ thuật an toàn và hiệu quả nhưng có một số biến chứng tuy hiếm nhưng khá nghiêm trọng bao gồm chân thương mạch máu, thủng ruột, thủng bàng quang do đường đi của dải băng qua khoảng sau xương mu(35).

Vào năm 2001, Delorme đã mô tả một phương pháp mới đặt dải băng niệu đạo đi qua lỗ bịt. Từ đó phương pháp đặt băng nâng niệu đạo qua lỗ bịt không áp lực (T-O-T) đã trở nên thông dụng trên toàn thế’ giới trong điều trị tiêu không kiêm soát khi gắng sức. Phương pháp này về lý thuyết cho thây ít bị bí tiêu hay rối loạn chức năng đi tiêu sau mổ cũng như có thế tránh một vài biến chứng như thủng bàng quang, thủng ruột. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá những kết quả ban đầu của phẫu thuật đặt băng nâng niệu đạo qua lỗ bịt không áp lực (TOT) tại BVĐHYD.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tât cả bệnh nhân nữ bị tiêu không kiêm soát được thực hiện phẫu thuật TOT từ tháng 12 năm 2008 đến tháng 10 năm 2010. Tât cả trường hợp được thực hiện bằng phương pháp vô cảm là tê tủy sống. Tât cả bệnh nhân được theo dõi 1 tháng sau mổ.
Tât cả bệnh nhân được đánh giá bệnh sử bao gồm số lượng băng vệ sinh sử dụng hàng ngày,
khám lâm sàng, xét nghiệm nước tiêu, xét nghiệm gắng sức (stress test). Chia số’ bệnh nhân ra làm 2 nhóm: nhóm 1 thực hiện đặt băng nâng niệu đạo từ da qua lỗ bịt vào chỗ rạch dưới niệu đạo (ngoài vào trong), nhóm 2 đặt băng nâng niệu đạo từ chỗ rạch dưới niệu đạo qua lỗ bịt ra ngoài da (trong ra ngoài).
KẾT QUẢ
Có tổng số’ 22 bệnh nhân được thực hiện TOT trong thời gian nghiên cứu. Tuổi trung bình của cả hai nhóm là lần lượt là 50,7 và 54,45 (tuổi từ 42-66). Thời gian phẫu thuật trung bình của cả hai nhóm đều là 47,3 phút không có khác biệt. Lượng máu mất không đáng kể.
Sau 1 tháng tỉ lệ khỏi bệnh ở 2 nhóm tương đương nhau là 81,8%, tỉ lệ đau sau mổ cũng tương đương là 18,2% tuy nhiên trong nhóm 1 có 1 trường hợp bị rách niệu đạo (9,1%) đã được khâu lại niệu đạo và lưu thông tiêu 3 tuần. Sau khi rút thông bệnh nhân vẫn còn bị tiêu không kiêm soát khi gắng sức. Trong nhóm 2 có 1 trường hợp bị áp xe phần mềm sau mổ nhưng khỏi hoàn toàn sau 1 tuần điều trị kháng sinh.
Tiêu gấp quan sát thấy ở 2 trường hợp trong nhóm 2 chiếm 18,2%.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment