Đánh giá hiệu quả của phương pháp thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú cho trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối

Đánh giá hiệu quả của phương pháp thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú cho trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối

Đánh giá hiệu quả của phương pháp thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trú cho trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối/ Lương Thị Phương.Suy thận mạn (STM) là một bệnh mạn tính do xơ hóa các Nephronchức năng gây giảm sút từ từ mức lọc cầu thận. Tình trạng bệnh thường nặnglên thậm chí có thể tử vong nếukhông được theo dõi và điều trị đều đặn.Hiện nay, trên thế giới thường dùng khái niệm bệnh thận mạn(CKD)thay thế cho khái` niệm suy thận mạn. Bệnh thận mạn được định nghĩalà tổn thương cấu trúc hay chức năng thận kéo dài 3 hoặc trên 3 tháng có kèmtheo hay không kèm theo suy giảm MLCT hoặc MLCT < 60ml/ph/1,73 m2da(1), (2). Bệnh thận mạn được chia làm 5 giai đoạn, trong đó bệnh thận mạngiai đoạn 5thường được gọi làbệnh thậngiai đoạn cuối(ESRD), suy thận giaiđoạn cuối(ESRF), hoặc bệnh thận giai đoạn cuối(ESKD) (3).Tại Thụy điển hàng nămtỷ lệ trung bình trẻ bị suy thận mạn là 7.7 trẻ/ 1triệu trẻ, và tỷ lệ trẻ bị suy thận mạn giai đoạn cuối là 6,4 trẻ/ 1 triệu trẻ (4).Ởchâu Âu, tỷ lệ trẻ (< 20 tuổi) bị bệnh thận mạn giai đoạn cuối phải điều trịbằng phương pháp thay thế thận là khoảng 60 trẻ/ 1 triệu (5), (6),vànăm2005,tỷ lệ trẻ phải điều trị thay thế thận trong nhóm tuổi từ 0 đến14 tuổi là 43 trẻ/ 1triệu trẻ (6).Tỷ lệ mắc mới của STM trên thế giới dao động từ 5-12 trẻ / 1triệutrẻ / năm, tỷ lệ này khác nhau ở các nước. Ở Việt Nam, theo nghiên cứuN.T.Q.Hương và cs cho thấy tỷ lệ mắc mới của STM là 5,1 trẻ /1 triệutrẻ/năm ở miền Bắc (7) và theo T.T.M.Hiệp thì tỷ lệ này là 4,8 trẻ / 1 triệu trẻ/năm ở miền Nam (8).Suy thận mạn dần dần sẽ tiến triển thành suy thận mạn giai đoạn cuốicần phải điều trị thay thế thận nếu không bệnh nhân sẽ bị tử vong. Hiện naytrên thế giới có 2 phương pháp điều trị thay thế thận đó là lọc máu và ghépthận. Hiện tại lọc máu được sử dụngtại Việt Nam cho bệnh nhân suy thận mạngiai đoạn cuối là thẩm phân phúc mạc và thận nhân tạo. Trong đó ghép thận là phương pháp điều trị tốt nhất, nhưng cần phải có người cho thận. Thận nhântạo cũng là phương pháp điều trị hiệu quả nhưng chỉ có thể tiến hành tại cáctrung tâm y tế lớn trong khi thẩm phân phúc mạc thì có thể tiến hành tại nhà,an toàn khi tiến hành kể cả với bệnh nhân bị mắc bệnh lý tim mạch và đặcbiệt giá thành không cao rất phù hợp với những bệnh nhân có thu nhập thấpvà ở xa trung tâm y tế.Tại Việt nam, TPPM đã được áp dụng lần đầu tiên năm 1970 tại khoaThận tiết niệu bệnh viện Bạch mai để điều trị suy thận cấp sau đó phươngpháp này dần được áp dụng để điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối tại nhiềubệnh viện trong cả nước. Tuy nhiên thẩm phân phúc mạc thực sự có hiệu quả lâu dài và an toàn cho trẻ em bị STM giai đoạn cuối không, đặc biệt trẻ đangcó nhu cầu phát triển cả thể chất và tâm thần.Tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về hiệu quả củaTPPM trên trẻ em chính vì vậy mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nàyvới hai mục tiêu:1.Nhận xét hiệu quả của thẩm phân phúc mạc liên tục ngoại trúcho trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối ở bệnh viện Nhi Trung Ương.2.Mô tả các biến chứng của phương pháp thẩm phân phúc mạc liêntục ngoại trú cho trẻ suy thận mạn giai đoạn cuối.

Leave a Comment