Đánh giá hiệu quả của Propofol trong thông khí nhân tạo xâm nhập tại khoa điều trị tích cực

Đánh giá hiệu quả của Propofol trong thông khí nhân tạo xâm nhập tại khoa điều trị tích cực

Trong thông khí nhân tạo (TKNT) xâm nhập, cần dùng thuốc an thần để giúp bệnh nhân (BN) thở theo máy. Propofol là một trong những thuốc đã được nhiều tác giả khuyến cáo có thể dùng trong thông khí nhân tạo dài ngày. Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của propofol trong thông khí nhân tạo với mục đích giúp BN thở theo máy và tìm hiểu các tác dụng phụ có thể gặp khi dùng thuốc kéo dài. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu trên 42 bệnh nhân ≥ 18 tuổi, không có chống chỉ định dùng propofol, được thông khí nhân tạo xâm nhập. Kết quả: propofol có hiệu quả ở 85,7% số bệnh nhân nghiên cứu. Propfol đơn thuần không hiệu quả ở các bệnh nhân ARDS  hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (acute respiratory distress syndrome) (5/5 bệnh nhân), cần phải phối hợp thêm giãn cơ. Tình trạng suy gan, suy thận không ảnh hưởng đến việc dùng thuốc. Không gặp tác dụng phụ nghiêm trọng khi dùng với liều điều trị. Kết luận: propofol có hiệu quả tốt và an toàn khi dùng trong thông khí nhân tạo xâm nhập dài ngày.
Dùng thuốc an thần, ức chế hô hấp là rất cần thiết trong thông khí nhân tạo xâm nhập nhằm giúp bệnh nhân thở theo máy. Các thuốc như thiopental, nhóm benzodiazepine, họ morphin… đều có những nhược điểm nhất định như  thời  gian  tỉnh  sau  ngừng  thuốc  kéo  dài, không dùng được ở những bệnh nhân suy giảm chức năng gan, thận. Dùng propofol có thể khắc phục các nhược điểm này vì có nửa đời sống ngắn và không tích lũy. Tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về sử dụng propofol trong gây mê để phục vụ cho phẩu thuật. Nhưng vẫn thiếu các nghiên cứu về sử dụng propofol trong thông khí nhân tạo xâm nhập, nhất là khi thông khí dài ngày. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
1.    Đánh  giá  hiệu  quả  của  propofol  trong thông khí nhân tạo xâm nhập.
2.    Tìm hiểu một số tác dụng không  mong muốn của propofol khi  dùng  trong  thông khí nhân tạo xâm nhập.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: các BN được TKNT xâm nhập, tuổi ≥ 18.
Tiêu chuẩn loại:
–    Dị ứng với propofol.
–    Tụt huyết áp (HATB < 50mmHg), không đáp ứng với điều trị.
–    Triglycerit máu > 5,6 mmol/l.
BN có tổn thương nội sọ (tai biến mạch máu não, chấn thương sọ não, u não, viêm não…) hoặc co giật do các nguyên nhân khác nhau.
2.    Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu can thiệp lâm sàng.
Địa điểm nghiên cứu: khoa Điều trị tích cực, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.
Phác đồ sử dụng propofol.
–    Liều khởi đầu 5 µg/kg/phút, tăng liều mỗi lần 5 µg/kg/phút, đến khi đạt điểm Ramsay = 3; nếu BN đã thở theo máy: duy trì liều thuốc; nếu chống máy: tăng tiếp liều thuốc theo  phác  đồ, tối đa 80 µg/kg/phút.
–    Ngừng thuốc khi có biến chứng: tụt huyết áp (HATB < 50mmHg, không đáp ứng điều trị), tăng triglycerit máu > 5,6 mmol/l.
Bảng điểm Ramsay: 1 điểm: lo âu, kích thích; 2 điểm: hợp tác, định hướng, yên lặng; 3 điểm: ngủ say, chỉ đáp ứng với các mệnh lệnh; 4 điểm: đáp ứng với tiếng động mạnh; 5 điểm: đáp ứng yếu ớt; 6 điểm: không đáp ứng.
Đánh giá là thành công nếu bệnh nhân thở theo máy, các chỉ số về hô hấp, tim mạch được đảm bảo; thất bại nếu bệnh nhân vẫn thở chống máy khi dùng propofol liều cao nhất; hoặc xuất hiện các biến chứng nặng (tụt huyết áp, tăng triglycerit máu).
Các  số  liệu  được  xử  lý  theo  phương  pháp thống kê y học

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment