Đánh giá hiệu quả của thông khí bảo vệ trên bệnh nhân tổn thương phổi cấp (ali) hoặc suy hô hấp (ards)

Đánh giá hiệu quả của thông khí bảo vệ trên bệnh nhân tổn thương phổi cấp (ali) hoặc suy hô hấp (ards)

ARDS là một tổn thương phổi nặng đã được mô tả cách đây hơn 30 năm bởi Ausbaugh và cộng sự. Từ đó đến nay mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị nhưng tỷ lệ tử vong còn cao 40 – 60 % [3]. Tất cả các bệnh nhân này đều cần được thông khí nhân tạo trong khi chờ phổi hồi phục. Phương thức thông khí kinh điển dùng thể tích khí lưu thông cao để tránh xẹp phổi bảo đảm oxy hoá và thải CO2. Tuy nhiên do thương tổn phổi trong bệnh cảnh ARDS không đồng đều bên cạnh những vùng phổi lành là những vùng xẹp và quá giãn. Vì vậy phương thức thông khí với Vt cao về lý thuyết có thể làm nặng thêm những vùng đã bị tổn thương, gây tổn thương phổi do áp lực (barotrauma) [2], tổn thương phổi do giải phóng các chất gây viêm vào hệ thống tuần hoàn (biotrauma) [9]. Chiến lược thông khí mới “Protective ventilation” – ngược lại với thông khí kinh điển là sử dụng Vt thấp với mục đích bảo vệ những vùng phổi lành và không làm tổn thương thêm những vùng đã bị tổn thương, chấp nhận ưu thán và thiếu oxy tương đối nhưng giữ được Pplateau < 30 cmH2O đã làm giảm tỷ lệ tử vong và rút ngắn thời gian thở máy so với thông khí kinh điển [8]. Tuy nhiên hiệu quả thực sự của thông khí bảo vệ vẫn còn nhiều bàn cãi [4]. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu về vấn đề này trên BN hồi sức ngoại khoa. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu:
1.    Đánh giá sự thay đổi khí máu động mạch và huyết động trong 48h đầu ở những bệnh nhân bị ALI và ARDS được áp dụng thông khí bảo vệ.
2.    Mô tả một số khó khăn và nhược điểm của phương thức thông khí này.
II.    ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán là tổn thương phổi cấp hoặc ARDS, điều trị tại khoa Hồi sức tích cực bệnh viện Việt Đức từ 4/2005 đến 10/2005.
2.    Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Dựa theo định nghĩa ARDS được hội nghị hợp nhất Á – Âu (1994) thông qua:
–    Oxy hoá: PaO2/FiO2  < 200 (với bất cứ  mức PEEP nào)
–    X quang ngực: thâm nhiễm cả hai phổi
–    ALĐMPB < 18mmHg hoặc không có dấu hiệu lâm sàng của tăng áp lực nhĩ trái.
Tiêu chuẩn chẩn đoán tổn ALI cũng tương tự ARDS chỉ khác: 200 < PaO2/FiO2 < 300.

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi khí máu động mạch và huyết động trong 48h đầu ở những bệnh nhân bị ALI hoặc ARDS được áp dụng thông khí bảo vệ; Mô tả một số nhược điểm của phương thức thông khí này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp tự đối chứng được tiến hành trên 30 bệnh nhân sau khi được chẩn đoán là ALI hoặc ARDS. Thông khí bảo vệ được áp dụng cho những bệnh nhân này. Khí máu động mạch, huyết động và các bất lợi của thông khí bảo vệ được theo dõi trong 48h đầu. Kết quả: thông khí bảo vệ làm áp lực đường thở giảm có ý nghĩa (p < 0,001), không làm thay đổi PaCO2  (p > 0,05) và cải thiện đáng kể PaO2 sau 12h thở máy (p < 0,05). Thông khí bảo vệ không làm thay đổi các thông số HAtb, M, CVP. 83,3% BN phải tăng liều lượng thuốc an thần khi áp dụng phương thức thông khí này. Kết luận: thông khí bảo vệ làm giảm áp lực đường thở, cải thiện PaO2  và không ảnh hưởng đến huyết động. Tuy nhiên BN cần liều thuốc an thần cao hơn.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment