Đánh giá hiệu quả của thông khí nhân tạo với phương pháp phổi mở trong điều trị suy hô hấp cấp tiến triển
Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả và nhận xét các biến chứng của thông khí nhân tạo theo “phương pháp phổi mở” trong điều trị suy hô hấp cấp tiến triển. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu can thiệp, áp dụng thông khí nhân tạo theo “chiến lược phổi mở” cho 32 bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển, điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đà Nẵng, từ tháng 12/2007 – 9/2010. Kết quả: độ tuổi trung bình là 47,9 ± 18,6, APACHEII: 19,5 ± 5,8, SOFA: 9,8 ± 2,7. Lâm sàng và khí máu động mạch đều được cải thiện trong quá trình thông khí. SpO2 trung bình tương ứng với các ngày 1, 2, 7 lần lượt: 90,2 ± 2,2; 92,3 ± 2,0; 94,2 ± 2,5 (%), nhịp tim: 118,9 ± 12,5; 110,2 ± 9,1; 102,2 ± 10,6 (lần/phút), và nhịp thở tương ứng là: 24 ± 7; 23 ± 4; 20 ± 5 (lần/phút). Oxy hóa máu cũng được cải thiện đáng kể trong quá trình TKNT, PaO2/FiO2 trung bình tương ứng với các ngày 1, 2, 7 lần lượt: 167 ± 48; 226 ± 52; 285 ±72 và sự cải thiện PaO2/FiO2 giữa các thời điểm nghiên cứu đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỉ lệ tử vong chung là 31,3%, phần lớn là tử vong trong tuần đầu (6/10 bệnh nhân) và chưa cai máy (8/10 bệnh nhân). Chỉ có 1/32 trường hợp có biến chứng tràn khí màng phổi. Tụt huyết áp thoáng qua chiếm tỷ lệ không nhỏ 12,5% nhưng phục hồi nhanh chóng. Kết luận: TKNT theo “chiến lược phổi mở” tỏ ra khá hiệu quả về cải thiện lâm sàng và các thông số khí máu, dung nạp tốt cho các bệnh nhân ARDS, tụt huyết áp thoáng qua chiếm tỷ lệ không nhỏ khi sử dụng mở phổi với PEEP 30, 35 cmH2O.
Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (Acute Respiratory Distress Syndrome – ARDS) là hội chứng thường gặp trong các khoa hồi sức cấp cứu và luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu bởi tính chất nặng và tỉ lệ tử vong cao. Trong ARDS luôn có tình trạng giảm oxy hóa máu trơ với các liệu pháp oxy mà nguyên nhân là do tổn thương trực tiếp màng mao mạch phế nang, và do có nhiều phế nang không thể tham gia vào quá trình trao đổi khí vì bị ngập trong dịch tiết (đông đặc) hoặc bị xẹp lại. Vì vậy, độ giãn nở của phổi trong ARDS nói chung là giảm thấp và thể tích thực sự của phổi cũng bị thu hẹp (baby lung). Nếu thông khí nhân tạo (TKNT) với thể tích khí lưu thông (Vt) kinh điển sẽ làm căng giãn quá m ức ở vùng phổi lành, gây hiện t ượng đóng m ở phế nang liên tục dẫn tới nguy cơ chấn thương phổi do áp lực. Do đó, TKNT với Vt thấp (4 – 8 ml/kg) được xem là TKNT theo “chiến lược bảo vệ phổi”.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu lại cho thấy TKNT với Vt thấp không thể huy động các phế nang xẹp vào trao đổi khí và có thể làm nặng thêm tình trạng xẹp phổi. Mặt khác, vùng phế nang xẹp trong ARDS là một trong những tiêu điểm dễ gây nhiễm khuẩn, hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) và từ đó đẫn đến suy đa cơ quan [5]. Vì vậy, mở các phế nang bị xẹp để huy động vào quá trình trao đổi khí là một tiêu chí luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm. Năm 1998, Amato và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu chiến lược “phổi mở” (open – lung approach) hay “huy động phế nang” (recruitment maneuver) tức là dùng một áp lực thở vào rất cao trong m ột thời gian ngắn để m ở các phế nang bị xẹp (mở phổi) kết hợp với áp lực dương cuối kỳ thở ra (PEEP) để giữ các phế nang này không bị xẹp lại. Kết quả cho thấy tỉ lệ tử vong ARDS trong 28 ngày đầu giảm rỏ rệt (38% so với 71%, p < 0,001) [2]. Gần đây nhất (2006), Borges và Amato tiến hành nghiên cứu huy động phế nang cho các bệnh nhân ARDS với áp lực từ 40 đến 60 cmH2O. Kết quả cho thấy mở được các phế nang xẹp (qua chụp cắt lớp vi tính) và cải thiện đáng kể oxy hóa máu [3]. Do vậy hiện nay, TKNT theo chiến lược “mở phổi” cũng là một phương thức được áp dụng trong điều trị bệnh nhân ARDS.
Ở Việt Nam, gần như chưa có sự thống nhất về phương thức TKNT trong ARDS, việc áp dụng chiến lược “mở phổi” có đem lại lợi ích gì hơn cho các bệnh nhân ARDS thì chưa có nghiên cứu nào đề cập đến. Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả của “phương pháp phổi mở” trong thông khí nhân tạo bệnh nhân suy hô hấp cấp tiến triển” nhằm 2 mục tiêu như sau:
– Đánh giá hiệu quả của thông khí nhân tạo theo “phương pháp phổi mở” trong điều trị suy hô hấp cấp tiến triển.
– Nhận xét các biến chứng của thông khí nhân tạo theo “phương pháp phổi mở” trong điều trị suy hô hấp cấp tiến triển.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích