Đánh giá hiệu quả của xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong ung thư trực tràng thấp tiến triển tại chỗ

Đánh giá hiệu quả của xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong ung thư trực tràng thấp tiến triển tại chỗ

Ung thư trực tràng (UTTT) là một trong những bệnh ung thư phổ biến ở nước ta và các nước trên thế giới. Tỷ lệ mắc UTTT trên thế giới ngày càng tăng. Ở những nước phát triển, ung thư đại trực tràng (UTĐTT) đứng hàng thứ 2 trong số các bệnh ung thư ở cả 2 giới, chỉ sau ung thư phổi ở nam giới và ung thư vú ở nữ giới. Tại Pháp, hàng năm có khoảng 34.500 ca ung thư đại trực tràng mới và khoảng 16.800 ca tử vong. Tại Mỹ hàng năm có khoảng 41.000 trường hợp UTTT mới mắc trong đó có khoảng 6-13% bệnh nhân ở giai đoạn T4; khoảng 5-30% bệnh nhân UTTT được PT trước đó sẽ tái phát tại chỗ.

Tại Việt Nam, UTĐTT nằm trong số các bệnh ung thư hay gặp và đứng vị trí thứ 6 trong các bệnh ung thư với tỷ lệ mắc là 9,2/100.000 dân và tỷ lệ tử vong là 5,0/100.000 dân. Hiện nay, bệnh nhân UTTT đến khám bệnh ở giai đoạn muộn, khi tổn thương đã xâm lấn tổ chức xung quanh còn cao, nên tỷ lệ các bệnh nhân được điều trị phẫu thuật triệt căn và phẫu thuật bảo tồn cơ tròn hậu môn thấp, đặc biệt khó khăn khi khối u xâm lấn vào mặt trước xương cùng (T4). Chính vì vậy, thời gian sống thêm và chất lượng sống không cao. Trong vài năm gần đây, ở một số cơ sở điều trị ung thư với những bệnh nhân UTTT giai đoạn tiến triển tại chỗ, không thể phẫu thuật triệt căn ngay từ đầu thì đang được điều trị xạ trị trước mổ. Tuy nhiên vẫn còn các trường hợp kháng tia, đáp ứng kém (theo Võ Văn Xuân (2012) tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn sau xạ trị trước mổ (8,9%) từ đó dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân UTTT không thể điều trị phẫu thuật triệt căn mà chỉ điều trị triệu chứng thăm dò làm hậu môn nhân tạo cao (theo nghiên cứu của tác giả Võ Quốc Hưng (2004) là 21,5%).

Hiện nay, trên thế giới đang có những thay đổi và tiến bộ lớn trong điều trị UTTT: nhiều tác giả đang tiến hành nghiên cứu ứng dụng các kỹ thuật mới, các thuốc mới, phối hợp nhiều phương pháp để nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân. Một trong những hướng nghiên cứu đó là điều trị phối hợp hoá xạ trị trước mổ. Đã có nhiều nghiên cứu điều trị kết hợp đồng thời Capecitabine với xạ trị trước mổ liều 45-50,4Gy cho bệnh nhân UTTT giai đoạn tiến triển tại chỗ cho thấy có kết quả khả quan: giúp hạ thấp giai đoạn bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật và tăng tỷ lệ bảo tồn cơ thắt hậu môn. Tác giả Elwanis và cs 2009: tỷ lệ hạ thấp giai đoạn bệnh sau hóa xạ trị là 74,4%.

Ở nước ta cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này đặc biệt đánh giá hiệu quả của điều trị phối hợp hoá xạ trị trước mổ cho bệnh nhân UTTT thấp ở giai đoạn tiến triển tại chỗ (T3, T4). Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá hiệu quả của xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong ung thư trực tràng thấp tiến triển tại chỗ

2.Mục tiêu của đề tài:

1. Đánh giá hiệu quả của phác đồ xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong ung thư trực tràng thấp tiến triển tại chỗ

2. Đánh giá một số tác dụng không mong muốn của phác đồ

3.Những đóng góp của luận án:

– Khẳng định được vai trò và hiệu quả của xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong bệnh ung thư trực tràng thấp giai đoạn tiến triển tại chỗ. Tỷ lệ đáp ứng cơ năng: 100%; đáp ứng sau điều trị: 90,8%; đáp ứng hoàn toàn: 9,2%; tỷ lệ hạ thấp giai đoạn bệnh: 46,0%. Thể tích khối u so với chu vi trực tràng giảm sau điều trị. Trước điều trị: 52,9% số bệnh nhân có khối u chiếm toàn bộ chu vi và đã giảm xuống 16,1% sau điều trị. 2,3% bệnh nhân không sờ thấy u sau điều trị. 40,0% số bệnh nhân giảm trên 10.000 mm3 thể tích khối u trên cộng hưởng tử tiểu khung 1.5 Tesla. 40,2% bệnh nhân có nồng độ CEA trước ĐT > 5ng/ml trong đó 91,4% bệnh nhân có nồng độ CEA giảm hơn so với trước ĐT. 79,3% bệnh nhân được phẫu thuật trong đó 67,8% bệnh nhân được phẫu thuật triệt căn; 12,6% bệnh nhân được phẫu thuật bảo tồn cơ thắt hậu môn. 9,2% bệnh nhân tái phát, di căn; 11,5% bệnh nhân tử vong ở thời điểm theo dõi 36 tháng.

– Đánh giá được các độc tính trên hệ tạo huyết và gan, thận của phác đồ xạ trị kết hợp Capecitabine trước mổ trong điều trị bệnh ung thư trực tràng thấp tiến triển tại chỗ: độc tính ít, chủ yếu ở độ 1,2

– Đánh giá được các biến chứng trên đường tiêu hóa, tiết niệu, trên da vùng xạ trị của phác đồ này. Đa số các bệnh nhân có các tác dụng không mong muốn khác ở độ 1,2 (buồn nôn, nôn, viêm miệng, ỉa chảy) với tỷ lệ thấp: 23,0%; 20,7%; 1,1%; 5,7% tương ứng, 39,1% bệnh nhân có viêm đỏ da vùng xạ trị, 12,6% loét da vùng xạ trị, 32,2% bệnh nhân viêm bàng quang; 24,1% bệnh nhân đau vùng hậu môn

4.Cấu trúc của luận án:

Luận án gồm 121 trang, với 4 chương chính: Đặt vấn đề 2 trang, Chương 1 (Tổng quan) 32 trang, Chương 2 (Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu) 18 trang, Chương 3 (Kết quả nghiên cứu) 33 trang, Chương 4 (Bàn luận) 32 trang, Kết luận và Khuyến nghị 3 trang.

Luận án có 39 bảng, 23 hình và 12 biểu đồ, 126 tài liệu tham khảo (30 tài liệu tiếng Việt, 95 tài liệu tiếng Anh và 1 tài liệu Tiếng Pháp).

 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment