Đánh giá hiệu quả cuộc chuyển dạ của các sản phụ tham gia “khoá học trước sinh” tại bệnh viện phụ sản Hà Nội

Đánh giá hiệu quả cuộc chuyển dạ của các sản phụ tham gia “khoá học trước sinh” tại bệnh viện phụ sản Hà Nội

Nghiên cứu thử nghiêm lâm sàng có đối chứng được tiến hành tại bênh viên Phụ Sản Hà Nội từ ngày 1/3/2006 đến ngày 31/2/2007. Đối tượng nghiên cứu là các bà mẹ có thai từ quí 1 được lựa chọn ngẫu nhiên vào hai nhóm: 88 bà mẹ tham gia “Khoá học trước sinh” và 88 bà mẹ chỉ khám thai theo qui trình thông thường tại bênh viên Phụ Sản Hà Nội. Ngoài các nội dung lý thuyết như dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, sinh lý chuyển dạ, nuôi con bằng sữa mẹ… các bà mẹ được hướng dẫn tập thể dục và các bài thở trong khi chuyển dạ. Kết quả: Tỷ lê bà mẹ đẻ thường thuộc nhóm nghiên cứu cao hơn nhóm chứng (63,6% so với 44,3%) với p < 0,05, trong khi đó tỷ lê mổ đẻ thấp hơn (23,9% so với 38,6%) với p < 0,05. Thời gian rặn đẻ của nhóm can thiệp (12,0 ± 9,8 phút) ngắn hơn nhóm chứng (22,8 ± 10,1 phút) với p < 0,001. Cân nặng trung bình trẻ sơ sinh của nhóm can thiêp (3261,9 ± 422,4 g) cao hơn nhóm chứng (3083,3 ± 476,3 g) với p < 0,01. Tỷ lê bà mẹ cho con bú sau đẻ < 1 giờ ở nhóm can thiêp (73,9%) cao hơn nhóm chứng (45,5%), p < 0,01. Số bà mẹ rất hài lòng với cuộc đẻ cao hơn ở nhóm can thiêp (75%) so với nhóm chứng( 23,9%) với p < 0,001. Kết luận: Các bà mẹ tham gia khoá học trước sinh có tỷ lê đẻ thường cao hơn, tỷ lê mổ đẻ thấp hơn, thời gian rặn đẻ ngắn hơn, cho con bú sớm hơn và mức độ hài lòng cao hơn so với các bà mẹ không tham gia khoá học.
Từ khoá: Khoá học trước sinh, chuyển dạ, nuôi con bằng sữa mẹ.
1.    ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ ý tưởng cho rằng người phụ nữ khi có thai và con của họ sẽ được hưởng lợi ích nếu họ được chuẩn bị về tinh thần và sức khoẻ cho cuộc đẻ nên Grantly Dick Read đã khởi xướng khoá học trước sinh từ năm 1933. Ông đã đề ra kỹ thuật thư dãn để giảm đau khi đẻ. Tiếp theo một số nhà khoa học khác đã đề xuất các phương pháp khác bao gồm kiểm soát viêc thở và thư giãn cơ, phương pháp trên được thực hiên tại Liên Xô (cũ) và tại phương Tây bởi Lamaze [4 ]. Gần đây các nội dung lớp học đã được mở rộng như giảng dạy các vấn đề về dinh dưỡng, nuôi con bằng sữa mẹ, các phương pháp tránh thai… Đã có một số nghiên cứu về kết quả của các lớp học tuy nhiên các nghiên cứu này đều gặp khó khăn trong viêc định lượng kết quả [6].
Tại Viêt Nam đã có một vài nghiên cứu đề xuất tới vấn đề tư vấn cho các bà mẹ trong khi mang thai nhưng chưa có nghiên cứu nào đưa ra một mô hình lớp học cụ thể cũng như cũng như đánh giá kết quả của khoá học. Tại bênh viên Phụ Sản Hà Nội, phòng tư vấn trước sinh đã ra đời từ năm 2002 với nhiêm vụ tư vấn cho các bà mẹ các vấn đề liên quan trong thời kỳ có thai tuy nhiên chưa có các nghiên cứu sâu về nội dung lớp học cũng như hiêu quả của nó. Xuất phát từ các lý do nêu trên chúng tôi tiến hành đề tài này với mục tiêu sau: Đánh giá hiệu quả tại cuộc đẻ của nhóm bà mẹ tham gia “Khoá học trước sinh” tổ chức tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
2.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu 2.1.Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC):
Nhóm can thiệp: Bao gồm các bà mẹ khoẻ mạnh có một thai sống, tuổi thai vào quí 1 đến khám thai tại bênh viên Phụ Sản Hà Nội được lựa chọn ngẫu nhiên.
Nhóm chứng: Lựa chọn theo thiết kế ghép cặp. Vào thời điểm thu nhận một sản phụ nhóm can thiêp sẽ chọn 1 sản phụ nhóm chứng. Viêc ghép cặp các đối tượng được thực hiên theo 3 yếu tố được cân nhắc là có khả năng gây nhiễu cao nhất: tuổi mẹ (ghép cặp theo nhóm với khoảng cách 5 tuổi: 18-25, 26-30, 31-35 và 36-40). Số con: ghép theo các nhóm 1, 2 và > 3 con. Tuổi thai: tương đồng giữa hai nhóm.
Tiêu chuẩn loại trừ: Mẹ quá trẻ (<18 tuổi) hoặc quá nhiều tuổi (> 40 tuổi), có tiền sử sản khoa đặc biêt như xảy thai liên tiếp, thiếu máu nặng, nhiễm độc thai nghén, mẹ có các bênh mãn
tính trước khi mang thai, có tiền sử mổ đẻ cũ hoặc các can thiệp vào tử cung, đa thai và cuối cùng là không tham gia đầy đủ các nội dung của lớp học.
Phương pháp nghiên cứu: tiến hành theo phương pháp thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Nhóm can thiệp: Các bà mẹ tham gia “Khoá học trước sinh” với một số nội dung như những thay đổi sinh lý và giải phẫu trong thời kỳ có thai, hướng dẫn bà mẹ theo dõi thai nghén bình thường, phát hiện một số nguy cơ thường gặp trong thời kỳ mang thai, cũng như về dinh dưỡng, về sinh lý chuyển dạ, chuẩn bị cho cuộc sinh nở và các biện pháp tránh thai, về chăm sóc trẻ sơ sinh, về thể dục khi mang thai và hướng dẫn thở khi chuyển dạ,   
Dụng cụ giảng dạy bằng projecter, tranh ảnh, mô hình, đệm để tập thể dục. Phương pháp giảng dạy: ngoài việc sử dụng các phương tiện trên giáo viên hướng dẫn sản phụ tập thể dục và tập thở tại lớp để sản phụ có khả năng tự tập ở nhà.
Thu thập số liệu: Đối với nhóm can thiệp số liệu được ghi chép trong mỗi lần khám thai và tham gia lớp học. Bản ghi cuối cùng được tiến hành tại phòng đẻ cho cả hai nhóm.
Địa điểm tiến hành nghiên cứu: Phòng “Giáo dục trước sinh” và phòng Đẻ bệnh viện Phụ Sản Hà Nội.
Các biến số nghiên cứu:
–    Trọng lượng thai nhi: Cân nặng thai nhi ngay sau sinh, cân nặng không tính đến tã lót, độ chính xác đến 10 g. Trẻ có cân nặng < 2500 g được coi là trẻ thấp cân.
–    i) Thời gian rặn đẻ: tính từ khi cổ tử cung mở hết, đầu thai nhi lọt thấp cho đến khi trẻ sổ ra khỏi âm hộ; ii) Đẻ chỉ huy tĩnh mạch: cuộc đẻ có sử dụng ocytocin để tăng co bóp tử cung; iii) Đẻ do gây chuyển dạ bằng thuốc: cuộc đẻ có sử dụng Misoprostol để gây khởi phát chuyển dạ, sử dụng biệt dược Alsoben liều 50ụ/lần/ ngậm má/6 giờ 1 lần cho đến khi cơn co đạt tần số 3 và có dấu hiệu của chuyển dạ; iv) Đẻ thủ thuật: thai nhi được lấy thai ra khỏi âm đạo bằng dụng cụ forceps hoặc giác hút; v) Đẻ mổ: Thai nhi được lấy khỏi tử cung bằng đường bụng.
–    Đánh giá mức độ hài lòng trong cuộc đẻ: Sản phụ được hỏi những thông tin xung quanh cuộc đẻ, theo thang điểm 10: ít hơn 5 điểm: không hài lòng, điểm 5: trung bình, từ 6 đến 8 điểm : hài lòng, từ 8 đến 10 điểm: rất hài lòng.
Sử lý số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS 12.0. Các biến số được thống kê dưới dạng: trung bình, độ lệch chuẩn. So sánh kết quả bằng các test t, test chính xác của Fisher, test Chi-square.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment