Đánh giá hiệu quả phát hiện và điều trị ký sinh trùng sốt rét qua hệ thống điểm kính hiển vi tuyến xã trong chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam
Tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán sốt rét (SR) là phát hiện ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) bằng phương pháp xét nghiệm máu soi kính hiển vi (HV). Từ năm 1990, chương trình quốc gia phòng chống SR (PCSR) đã có chiến lược mở rộng và phát triển điểm kính HV tuyến xã với mục tiêu phát hiện chẩn đoán và điều trị sớm bệnh nhân SR ngay tại tuyến xã nhằm giảm mắc và chết do SR.
Sau nhiều năm hệ thống điểm kính ngày càng phát triển, từ lúc ban đầu chỉ 3-4 xã có một điểm kính thì đến nay độ bao phủ của kính đã được mở rộng. Hầu hết các xã vùng SR lưu hành (SRLH) hầu như đều có kính. Các tỉnh phía Bắc số xã có kính tuy ít hơn nhưng cũng đủ phục vụ xét nghiệm chẩn đoán SR. Điểm kính HV xã đã phát huy tốt vai trò trong phát hiện bệnh nhân SR. Trong tổng số ca bệnh phát hiện hàng năm, một phần lớn bệnh nhân được phát hiện tại tuyến xã, điều này góp phần đáng kể trong việc giảm gánh nặng bệnh nhân SR cho các tuyến trên.
Để nâng cao chất lượng và duy trì hoạt động của các điểm kính HV chúng tôi tiến hành một cuộc nghiên cứu về hệ thống điểm kính tuyến xã. Mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng và độ bao phủ của điểm kính HV tuyến xã trong chẩn đoán và điều trị sớm bệnh sốt rét.
2. Đánh giá khả năng cung cấp dịch vụ, chất lượng hoạt động của điểm kính HV tuyến xã và sự tiếp cận của người dân.
I. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứu
Các trạm y tế xã, nơi có kính HV (gọi là điểm kính HV) thuộc vùng SRLH bao gồm kính và xét nghiệm viên (XNV).
2. Phương pháp nghiên cứu
Điều tra ngang mô tả và phân tích với các nội dung: Số lượng điểm kính, số người được xét nghiệm, số bệnh nhân SR phát hiện và điều trị,trình độ của xét nghiệm viên, chất lượng kính… Điều tra hồi cứu số liệu tại các điểm kính HV với các nội dung giống như điều tra ngang và cóthêm các chỉ số như: Kết quả xét nghiệm, thuốc điều trị, vật tư dụng cụ phục vụ xét nghiệm, phạm vi dân phục vụ, mức độ tiếp cận của người dân…
Mẫu nghiên cứu: 60 điểm kính HV tập hợp từ 30 đoàn giám sát của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng TƯ từ 35 tỉnh trong năm 2005, bao gồm:Mẫu báo cáo kết quả thực hiện PCSR của các tỉnh trong hệ thống báo cáo thường xuyên của Chương trình quốc gia PCSR tập hợp từ 35 tỉnh trong cả nước.
Mẫu báo cáo kết quả điều tra, giám sát hoạt động PCSR các tuyến y tế bao gồm chẩn đoán, điều trị SR của các đoàn công tác của viện Sốt rét
– Ký sinh trùng – Côn trùngTrung Ương.
Kiểm tra kỹ năng phát hiện KSTSR của xét nghiệm viên bằng soi bộ lam mẫu (nhận dạng các thể, chủng loại, mật độ KST) của viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùngTrung Ương và WHO [5, 6].
Thời gian nghiên cứu: năm 2005
Nghiên cứu hệ thống xét nghiệm trong chẩn đoán sốt rét ở Việt Nam được thực hiện năm 2005. Mục tiêu: (1). Đánh giá thực trạng, độ bao phủ, chất lượng xét nghiệm; (2). Đánh giá khả năng tiếp cận của người dân đối với điểm kính hiển vi tuyến xã. Đối tượng và phương pháp: Điều tra ngang mô tả và hồi cứu số liệu các điểm kính hiển vi tại trạm y tế xã của 35 tỉnh. Kết quả: Đến 2005, cả nước có 2794 điểm kính hiển vi xã, các vùng sốt rét vừa và nặng có độ bao phủ kính cao: Trung bình 1,3 – 1,5 xã và 5000 – 7500 dân / 1 kính cho vùng sốt rét vừa và nặng. Có 40 – 45% số lam máu phát hiện và 67 – 73% số bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị tại xã hàng năm. Xét nghiệm viên được đào tạo 3 tháng: 58,5%. Khả năng soi phát hiện ký sinh trùng: 78 – 88%. Tỷ lệ điểm kính có đủ hóa chất, dụng cụ và thuốc sốt rét đạt 97,8%, tỷ lệ xã có test chẩn đoán nhanh thấp (7,6 – 10% và có thuốc Artemisinin phối hợp với thuốc SR khác: 53,3%. Khoảng 34% số dân tiếp cận điểm kính 1 – 2 giờ, còn đa số > 2 giờ (56%). Người dân vùng sốt rét nặng và vừa đến điểm kính xã khi sốt chiếm tỷ lệ cao (81 – 89%). Có 47% số kính đạt chất lượng tốt. Kết luận: Hệ thống điểm kính hiển vi tuyến xã đã đáp ứng được yêu cầu phát hiện và điều trị sớm bệnh nhân sốt rét tại tuyến đầu.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích