Đánh giá hiệu quả tác dụng của GnRH agonist trong phác đổ ngắn và phác đổ dài ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn
Mục tiêu: So sánh hiệu quả kích thích buồng trứng của GnRH agonist trong phác đổ dài và phác đổ ngắn ở bệnh nhân thụ tinh trong ông nghiệm bằng phương pháp bơm tinh trùng vào bào tương noãn. Thiết kế’ nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu thực hiện tại trung tâm hỗ trợ sinh sản bệnh viện Phụ Sản Trung Ương từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Những bệnh nhân được thụ tinh trong ông nghiệm bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn được chọn theo phân nhóm ngẫu nhiên tổng số có 139 bệnh nhân, trong đó 52 bệnh nhân được dùng phác đồ ngắn và 87 bệnh nhân được dùng phác đồ dài. Với phác đồ ngắn, bệnh nhân được tiêm GnRH agonist từ ngày 2 của chu kỳ kinh sau đó được bổ sung gonadotropin vào ngày 3 của chu kỳ kinh. Với phác đồ dài, bệnh nhân được tiêm GnRH agonist vào ngày 21 của chu kỳ kinh trước sau khi đạt được điều hòa xuống (down-regulation) thì được bổ sung gonadotropin.
Kết quả: Thời gian kích thích buồng trứng ở phác đồ ngắn thì ngắn hơn phác đồ dài. Tổng liều gonadotropin ở phác đồ dài thì ít hơn phác đồ ngắn (1853 ± 462,05 so với 2169,23 ± 590,98), số noãn được chọc hút (6,51 ± 4,33 so với 4,13 ± 3,14), noãn được thụ tinh (4,01 ± 1,43 so với 2,98 ± 1,23), phôi được chuyển (4,01 ± 1,43 so với 2,98 ± 1,23), tỷ lệ có thai (37,9% so với 15,4%) ở phác đồ dài cao hơn phác đồ ngắn, sự khác biệt có ý nghĩa thông kê p < 0,05.
Kết luận: Tỷ lệ có thai ở bệnh nhân dùng phác đồ dài 37,9% cao hơn phác đồ ngắn 15,4%.
1. ĐẶT VẤN ĐỂ
Trường hợp có thai đầu tiên từ phương pháp thụ tinh trong ông nghiệm là chu kỳ tự nhiên không có kích thích buồng trứng. Ngày nay, các trung tâm hỗ trợ sinh sản thường kích thích buồng trứng trước khi làm thụ tinh trong ông nghiệm để tăng thêm số lượng nang noãn và tăng tỷ lệ có thai. Một trong những vấn đề quan trọng khi kích thích buồng trứng với gonadotropin (Puregon) là sự xuất hiện đỉnh LH (luteinizing hormone) sớm làm giảm chất lượng nang noãn. Và nguy cơ này sẽ giảm khi dùng GnRH agonist kết hợp với gonadotropin, khi dùng GnRH agonist thì nồng độ LH cao ở pha nang noãn sẽ bị ức chế và khi đỉnh LH bị ức chế sẽ làm tăng tỷ lệ có thai [8]. Sự kết hợp giữa GnRH agonist với gonadotropin để kích thích buồng trứng thường được dùng trong ba phác đồ: phác đồ cực ngắn, phác đồ ngắn, phác đồ dài. Trong phác đồ cực ngắn GnRH agonist được dùng trong 2¬3 ngày từ ngày 2 chu kỳ kinh cùng với kích thích buồng trứng, thường phác đồ cực ngắn không ức chế hết được đỉnh LH [1, 4]. Phác đồ ngắn là dùng GnRH agonist ở pha nang noãn sớm song song với kích thích buồng trứng trong các chu kỳ điều trị. Khi GnRH agonist được dùng ở pha đầu nang noãn hay pha hoàng thể của chu kỳ trước thì gọi là phác đồ dài. Việc dùng những GnRH agonist trong kích thích buồng trứng cho thấy đã cải thiện rõ rệt kết quả của những chu kỳ thụ tinh trong ông nghiệm, làm giảm đáng kể số chu kỳ bị ngưng lại do có đỉnh LH tự nhiên sớm, giảm ngừng trệ phát triển nang noãn, cải thiện tỷ lệ có thai lâm sàng [2, 6]. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tác dụng của GnRH agonist trong phác đổ ngắn và phác đổ dài ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chọn ngẫu nhiên những bệnh nhân đến thụ tinh trong ông nghiệm bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn với phác đồ ngắn và phác đồ dài tại bệnh viện Phụ Sản Trung Ương từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tổng số có 139 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, tuổi từ 23 đến 42, trong đó 52 bệnh nhân dùng phác đồ ngắn và 87 bệnh nhân sử dụng phác đồ dài.
Phác đồ ngắn (nhóm 1): dùng Suprefact 0,6 mg/ ngày vào ngày thứ 2 vòng kinh, đến ngày thứ 3 dùng gonadotropin (Puregon, Gonal-F) liều gonadotropin tùy thuộc vào tuổi và đáp ứng của buồng trứng trên từng bệnh nhân, lúc này liều Suprefact giảm đi một nửa còn 0,3 mg/ ngày, duy trì đến khi cho HCG. Theo dõi sự đáp ứng buồng trứng bằng siêu âm đầu dò âm đạo và xét nghiệm nồng độ estradiol (E2). Khi có ít nhất 2 nang đạt kích thước > 17-18mm thì cho tiêm bắp 10000 IU HCG (Pregnyl 5000 IU hay Profasi 5000 IU). Chọc hút noãn sau khi tiêm Pregnyl 10000 IU khoảng 35¬36 giờ bằng kim qua siêu âm đầu dò âm đạo.
Phác đồ dài (nhóm 2): dùng Suprefact 0,6 mg/ ngày vào ngày 21 vòng kinh đến khi đạt được down-regulation thường sau 13-14 ngày dùng Suprefact, xét nghiệm thấy LH < 5 IU/L và E2 < 50 pg/ml, thì bắt đầu cho gonadotropin (Puregon, Gonal-F) liều gonadotropin tùy vào tuổi và đáp ứng của buồng trứng đối với từng bệnh nhân, lúc này liều Suprefact giảm đi một nửa còn 0,3 mg/ ngày và duy trì đến ngày cho HCG. Theo dõi kích thích buồng trứng bằng siêu âm đầu dò âm đạo và xét nghiệm estradiol (E2). Khi có ít nhất 2 nang đạt kích thước > 17-18mm thì cho tiêm bắp 10000 IU HCG (Pregnyl 5000 IU). Chọc hút noãn sau khi tiêm Pregnyl 10000 IU khoảng 35-36 giờ bằng kim qua siêu âm đầu dò âm đạo.
Noãn sẽ được thụ tinh với tinh trùng, sau 18 giờ sẽ kiểm tra thụ tinh, ngày thứ hai sẽ kiểm tra phôi, chọn những phôi tốt để chuyển phôi vào buồng tử cung vào ngày thứ 2. Sau 14 ngày xét nghiệm phCG để kiểm tra thai sinh hóa. Siêu âm kiểm tra thai sau 4 tuần.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích