ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA PHỐI HỢP GÂY TÊ XƯƠNG CÙNG BANG LEVOBUPIVACAINE VÀ MORPHINE VỚI GÂY MÊ TỔNG QUÁT TRONG PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TIM BẨM SINH Ở TRẺ EM

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA PHỐI HỢP GÂY TÊ XƯƠNG CÙNG BANG LEVOBUPIVACAINE VÀ MORPHINE VỚI GÂY MÊ TỔNG QUÁT TRONG PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TIM BẨM SINH Ở TRẺ EM

 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA PHỐI HỢP GÂY TÊ XƯƠNG CÙNG BANG LEVOBUPIVACAINE VÀ MORPHINE VỚI GÂY MÊ TỔNG QUÁT TRONG PHẪU THUẬT SỬA CHỮA TIM BẨM SINH Ở TRẺ EM

Nguyễn Thị Quý 
TÓM TẮT
Phối hợp gây tê xương cùng với gây mê tổng quát có thể làm giảm các đáp ứng đối với stress trong quá trình mổ tim. Hơn nữa còn góp phan cải thiện chức năng hô hấp, tuan hoàn ổn định hơn, giảm thang điểm đau và rút nội khí quản sớm sau mổ. Điêu này dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ.
Mụcđích nghiêncứunhằmđánh giáhiệuquả và an toàn củaphốihợptê xương cùngbằng
Levobupivacaine (Chirocaine®) và Morphine với gây mê tổng quát trong phẫu thuật tim mạch trên các trẻ em bệnh tim bẩm sinh
Phương pháp nghiên cứu: chúng tôi thực hiện tê xương cùng với Levobupivacaine nồng độ 0,2 – 0,25% với morphine không chứa chất bảo quản với liêu lượng 80 -100 ụg/kg trên 103 trẻ em dưới phẫu thuật sữa chữa tim bẩm sinh, gồm 51 nam và 52 nữ. Tất cả các bệnh nhi này được gây mê tổng quát, thông khí kiểm soát và duy trì mê với Sevoflurane.
Kết quả: Huyết động ổn định trong và sau mổ. Thời gian trung bình từ khi tê xương cùng đến rạch da (phút) là 38,66 ± 12,68 (30 – 60).Thời gian thức tỉnh trung bình sau mổ (giờ) là 3,05 ± 2,35 (1 – 5,03). Thời gian rút nội khí quản trung bình sau mổ (giờ) là 6,17 ± 2,33 (4 – 9). Thời gian giảm đau sau mổ từ 12 -16 giờ. Đánh giá hiệuquả giảm đau sau mổ vớikếtquảtốt93,4%, 12trườnghợp(TH)cancho thêm thuốc giảm đau
(Prodafalgan đặt hậu môn, morphine chích tĩnh mạch); 3 trường hợp nôn và buồn nôn; 1 trường hợp bí tiểu. Tất cả bệnh nhân này được chuyển trại trong vòng 24 giờ sau mổ.
Kết luận: Phối hợp tê xương cùng bằng Levobupivacaine và morphine với gây mê toàn thân được thực hiện an toàn và hiệu quả trên các trẻ em dưới phẫu thuật tim bẩm sinh.
MỞ ĐẦU
Những ích lợi từ việc sử dụng kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng (TNMC) với thuốc phiện trong phẫu thuật tim mạch lồng ngực ở trẻ em bắt đầu từ nghiên cứu đầu tiên của Rosen(12) năm 1980. Nghiên cứu này đã chứng minh việc gây tê xương cùng chỉ với một liều duy nhất morphine (single -shot caudal block) vào cuối cuộc mổ có thể đạt được hiệu quả giảm đau cũng như duy trì sự thoải mái cho các trẻ em ở giai đoạn sau mổ các phẫu thuật lồng ngực. Càng ngày kỹ thuật gây tê vùng càng được phổ biến và đã có nhiều công trình báo cáo về ích lợi của việc phối hợp gây tê vùng với gây mê toàn thân trong các phẫu thuật tim mạch ở cả người lớn và trẻ em. Sự phối hợp này cho phép giảm các đáp ứng của cơ thể đối với stress ngoại khoa, duy trì huyết động ổn định hơn trong lúc mổ, cải thiện chức năng hô hấp, rút nội khí quản sớm hơn, kiểm soát đau sau mổ tốt hơn. Do đó rút ngắn thời gian thở máy sau mổ, giảm thấp tỷ lệ tử vong, biến chứng, chi phí điều trị hơn so với gây mê toàn thân đơn thuần và giảm đau sau mổ bởi chích morphine qua đường tĩnh mạch.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá hiệu quả và an toàn của phối hợp tê
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment