Đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II sử dụng sonicsys®
Phục hồi composite được sử dụng trên Thế giới từ những năm 1960 và bắt đầu phổ biến ở Việt Nam từ những năm 1990. Mặc dù liên tục được cải tiến về chất lượng dán, các đặc tính cơ học, tương hợp sinh học, thẩm mỹ, hiện tượng co khi trùng hợp và hình thành vi kẽ vẫn là một nguyên nhân
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu nghiên cứu
Bộ SONICSYS®: đầu chức năng SONICSYSap- prox, glass – ceramic SONICSYS inlay làm sẵn cho xoang loại II.dẫn đến các vấn đề sau điều trị như tình trạng nhạy cảm, nhiễm màu, sâu răng tái phát, viêm tủy răng… Đối với xoang loại II, việc đạt được chất lượng bờ phục hồi khít sát, đặc biệt là bờ phía cổ răng là một vấn đề luôn được đặt ra do bờ phía cổ răng có lớp men mỏng, vị trí khó tiếp cận khi sửa soạn xoang, đặt và trùng hợp vật liệu phục hồi.
Kết hợp giảm tỷ lệ khung nhựa và tăng thành phần vô cơ là một cách làm giảm lực co do trùng hợp. Với hướng cải tiến đó, “composite lai” đã ra đời, tuy nhiên thành phần của nó vẫn còn một tỷ lệ khá lớn resin hữu cơ. Miếng ghép glass – ceramic làm sẵn bằng vật liệu có nhiều hạt độn resin composite là một cải tiến nhằm khắc phục vấn đề này. Bằng cách thay thế một khối resin composite, miếng ghép glass – ceramic làm tăng tỷ lệ hạt độn/resin của phục hồi.
Về mặt lý thuyết, sử dụng miếng ghép làm sẵn có thể là một cách giúp cải thiện được đặc tính lý học cũng như độ bền của phục hồi. Tuy nhiên, những bằng chứng thực nghiệm về chất lượng của các phục hồi sử dụng miếng ghép glass – ceramic làm sẵn vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Chất lượng của phục hồi sử dụng miếng ghép làm sẵn không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của bản thân miếng ghép, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp hợp của vật liệu gắn với miếng ghép và với mô răng.
Thử nghiệm này thực hiện nhằm mục tiêu: Đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II có inlay glass – ceramic làm sẵn của hệ thống SONICSYS®, sử dụng hai vật liệu gắn khác nhau là Tetric®Flow và ProtecCEM.
Composite lỏng quang trùng hợp Tetric®Flow /hệ thống dán Syntac®Single – Component / chất xử lý men ngà.
Xi – măng ionomer lai tự trùng hợp ProtecCEM.
2. Phương pháp nghiên cứu
Mẫu gồm 36 răng cối lớn vĩnh viễn của người, nguyên vẹn, mới nhổ, được xử lý và bảo quản trong dung dịch nước muối sinh lý ở 40C trong vòng 30 ngày, cho đến khi tiến hành thử nghiệm.
Chuẩn bị xoang: Ba mươi sáu xoang loại II được sửa soạn bằng đầu chức năng SONICSYSap- prox. Các răng được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm, mỗi nhóm 18 mẫu. Không có sự đổi nhóm tùy tiện nào xảy ra.
Thực hiện phục hồi
Nhóm 1: Sử dụng inlay glass – ceramic làm sẵn của hệ thống SONICSYS® / Tetric®Flow / Syntac®Single – Component / chất xử lý men ngà.
Xoang được rửa sạch bằng xịt nước và thổi khô trong 5 giây. Dùng cọ quét một lớp acid phosphoric 37% lên bờ men và toàn bộ lòng xoang, động tác này thực hiện trong 10 giây, chờ tiếp 15 giây nữa, sau đó rửa sạch và thổi nhẹ cho se bề mặt xoang.
Đặt khuôn trám trong. Dùng cọ phủ một lớp vật liệu dán Syntac®Single – Component lên khắp bề mặt xoang, chờ 20 giây, thổi nhẹ cho lớp vật liệu dán dàn mỏng và loại bỏ phần dư khỏi bề mặt xoang trám, chiếu đèn trong 20 giây. Tiếp tục đặt một lớp Syntac®Single – Component thứ hai, thổi ngay và chiếu đèn trong 20 giây.
Bơm một lớp Tetric®Flow lên toàn bộ bề mặt xoang. Đặt inlay, lấy bỏ phần composite dư.Chiếu đèn 20 giây đồng thời từ mặt ngoài và mặt trong của răng, chiếu tiếp 40 giây từ mặt nhai.Mài bỏ phần cán inlay còn dư trên mặt nhai, hoàn tất và đánh bóng.
Nhóm 2: Sử dụng inlay glass – ceramic làm sẵn của hệ thống SONICSYS® / ProtecCEM
Xoang được rửa sạch bằng xịt nước và thổi khô trong 5 giây.Đặt khuôn trám trong.
Trộn xi – măng theo hướng dẫn của nhà sản xuất, đặt một lớp mỏng xi – măng lên toàn bộ bề mặt xoang. Đặt inlay. Chờ 3 phút, lấy bỏ phần xi- măng dư.
Chờ xi – măng đông cứng, mài bỏ phần cán inlay còn dư trên mặt nhai, hoàn tất và đánh bóng.
Chu trình nhiệt: Các mẫu đều trải qua 100 chu kỳ nhiệt, mỗi chu kỳ kéo dài 1 phút, nhiệt độ thay đổi giữa 50C and 600C (thời gian ở mỗi điều kiện trong mỗi chu kỳ là 25 giây).
Làm tiêu bản: Cách ly: Bít kín phần chóp chân răng bằng sáp dính. Phủ một lớp sơn bóng chống thấm lên toàn bộ bề mặt răng, trừ một “cửa sổ” là bề mặt phục hồi và mở rộng ra 1mm xung quanh bờ phục hồi.
Nhuộm màu vi kẽ: Mẫu được ngâm trong dung dịch xanh methylene 2% trong 12 giờ ở nhiệt độ 250C. Sau đó mẫu được làm sạch, làm khô, bao nhựa trong.Mẫu được cắt qua trung tâm phục hồi theo mặt phẳng qua trục răng và theo chiều gần xa bằng đĩa kim cương mỏng có nước làm mát.
Đánh giá vi kẽ: Mức độ thâm nhập chất màu được đánh giá dưới kính hiển vi nổi, độ phóng đại 30 lần, theo thang điểm sau:
0 = không thấy chất màu ở thành nướu
1 = chất màu thâm nhập chưa quá một nửa chiều dài thành nướu
2 = chất màu thâm nhập quá một nửa chiều dài thành nướu
3 = chất màu thâm nhập toàn bộ thành nướu và lan tới thành trục
Mục tiêu: Thử nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá in vitro vi kẽ thành nướu của phục hồi xoang loại II sử dụng SONICSYS® hai loại vật liệu gắn dán khác nhau. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Ba mươi sáu xoang loại II được chuẩn bị bằng các đầu chức năng SONICSYSapprox trên các răng cối lớn vĩnh viễn không sâu mới nhổ. Phục hồi được thực hiện bằng inlay glass – ceramic làm sẵn của hệ thống SONICSYS®, sử dụng hai loại vật liệu gắn dán khác nhau là composite lỏng quang trùng hợp Tetric®Flow / với hệ thống dán Syntac®Single – Component có xử lý men ngà (nhóm 1), và xi – măng ionomer lai tự trùng hợp ProtecCEM (nhóm 2). Điều kiện đánh giá của thử nghiệm là chu trình nhiệt (100 chu kỳ, 50C – 600C). Mức độ thâm nhập chất màu ở mặt tiếp giáp răng – phục hồi dọc thành nướu được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 3 dưới kính hiển vi nổi với độ phóng đại 30 lần. Kết quả: 38,9% phục hồi ở nhóm 1 và 11,1% phục hồi ở nhóm 2 có chất lượng tiếp hợp bờ ở thành nướu hoàn toàn tốt; có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ thâm nhập chất màu ở thành nướu của phục hồi ở hai nhóm thử nghiệm. Kết luận: Trong điều kiện thử nghiệm, có thể nhận định rằng phương pháp sử dụng inlay làm sẵn SONICSYS® không ngăn chặn được hoàn toàn sự hình thành vi kẽ ở thành nướu của phục hồi xoang loại II; sử dụng composite lỏng Tetric®Flow kết hợp với hệ thống dán và xử lý men ngà để gắn inlay glass – ceramic làm sẵn cho chất lượng tiếp hợp bờ cao hơn so với sử dụng xi – măng ionomer lai tự trùng hợp ProtecCEM.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích