ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐAU CUA PHẨU THUẬT TẠO HĨNH KHÚC NỐI BỂ THẬN – NIỆU QUẢN KIỂU CẮT RỜI HYNES – ANDERSON QUA NỘI SOI SAU PHÚC MẠC

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐAU CUA PHẨU THUẬT TẠO HĨNH KHÚC NỐI BỂ THẬN – NIỆU QUẢN KIỂU CẮT RỜI HYNES – ANDERSON QUA NỘI SOI SAU PHÚC MẠC

 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BAN ĐAU CUA PHẨU THUẬT TẠO HĨNH KHÚC NỐI BỂ THẬN – NIỆU QUẢN KIỂU CẮT RỜI HYNES – ANDERSON QUA NỘI SOI SAU PHÚC MẠC

Ngô Đại Hải , Nguyễn Tuấn Vinh , Vũ Lê Chuyên**
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận – niệu quản kiểu cắt rời qua nội soi sau phúc mạc (nội soi hông lưng).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 5/2006 đến tháng 9/2010 tại khoa Ngoại Niệu bệnh viện Bình Dân có 116 bệnh nhân với chẩn đoán hẹp khúc nối bể thận – niệu quản nguyên phát được phẫu thuật tạo hình khúc nối qua nội soi sau phúc mạc. Chúng tôi đặt 3 hoặc 4 trocar ở vùng hông lưng sau khi đã bơm hơi bong bóng để tạo khoang làm việc sau phúc mạc, tạo hình khúc nối kiểu cắt rời Hynes – Anderson, khâu nối bểthận – niệu quản bằng chỉ Vicryl 4.0, có đặt thông JJ lưu trong lúc mổ, chuyển vị khúc nối khi có mạch máu bất thường chèn ép, lấy sỏi thận thứ phát kết hợp qua vết cắt mở bể thận khi tạo hình lại khúc nối. Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật qua các thông số ghi nhận trong lúc mổ và trong thời gian hậu phẫu gần.
Kết quả: Tất cả 116 trường hợp đêu được phẫu thuật thành công qua ngã nội soi sau phúc mạc. Thời gian mổ trung bình là 128,8 phút (65 – 260). Lượng máu mất trung bình là 13,2 ml (1 – 100). Thời gian dùng thuốc giảm đau trung bình là 5,2 ngày (2 – 11). Thời gian nằm viện trung bình là 5,8 ngày (3 – 16). Mạch máu bất thường cực dưới được phát hiện trong 38 trường hợp (32,8%). Có 8 trường hợp có sỏi thận thứ phát kết hợp. Có 1 trường hợp bị thủng phúc mạc trong lúc bóc tách tìm niệu quản và 81 trường hợp bị tràn khí dưới da nhưng ở mức độ nhẹ không cần xử trí đặc hiệu. Trong hậu phẫu có 1 trường hợp liệt ruột, 1 trường hợp viêm đài bể thận và 2 trường hợp rò nước tiểu kéo dài nhưng tự ổn sau 8 và 12 ngày.
Kết luận: Phẫu thuậttạohình khúcnối bể thận- niệuquảnkiểucắt rời qua nội soi sau phúcmạclàmột
phẫu thuật an toàn, có thểáp dụng trong điêu trị bệnh lý hẹp khúc nối.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hẹp khúc nối bể thận – niệu quản là một bệnh lý thường gặp trong niệu khoa. Các phương pháp điều trị bệnh lý này hiện nay gồm có phẫu thuật tạo hình khúc nối qua mổ mở hoặc qua nội soi ổ bụng và phẫu thuật xẻ rộng khúc nối qua nội soi niệu quản.
Phẫu thuật tạo hình khúc nối qua nội soi ổ bụng trong phúc mạc được thực hiện đầu tiên bởi Schuessler và Kavoussi năm 1993(913), sau đó là Gaur năm 1994 và Janetschek năm 1996 qua đường sau phúc mạc(6). Các kỹ thuật tạo hình khúc nối thường được sử dụng là Hynes- Anderson, Fenger, Y-V… trong đó kỹ thuật cắt rời Hynes-Anderson được ưa chuộng nhất(71516).
Tại bệnh viện Bình Dân chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật tạo hình khúc nối qua nội soi sau phúc mạc từ tháng 12 năm 2003. Chúng tôi cũng thực hiện nhiều kỹ thuật tạo hình khúc nối khác nhau tuy nhiên kỹ thuật cắt rời vân chiếm đa số. Chúng tôi thực hiện bài viết này nhằm đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật tạo hình khúc nối bể thận niệu quản kiểu cắt rời Hynes- Anderson qua nội soi sau phúc mạc trong điều kiện hiện nay tại nước ta.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment