Đánh giá kết quả cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng tại vị trí nhận
Đặt vấn đề: Cấy chuyển răng tự thân là lấy các răng mọc ngầm, mọc kẹt hoặc đã mọc nhưng ít chức năng, mang từ vị trí này cấy vào vị trí khác trên cung hàm của cùng một cơ thể. Vị trí nhận có thể là huyệt ổ vừa mới nhổ răng hoặc được tạo ra bằng khoan phẫu thuật. Mục tiêu: Đánh giá kết quả lâm sàng và X quang cấy chuyển răng tự thân ngay sau khi nhổ răng vị trí nhận. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu 38 răng cấy trên 34 bệnh nhân tuổi từ 12 đến 37 tại bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và Trường đại học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 9/2007 đến tháng 3/2010. Trong đó có 26 răng khôn được cấy chuyển đến vị trí răng hàm lớn thứ nhất hoặc thứ hai hàm dưới. Sau cấy, các răng được cố định bán cứng và điều chỉnh khớp cắn. Trong thời gian theo dõi, đánh giá lâm sàng qua các chỉ số lành thương vùng quanh răng, thử nghiệm gõ răng và lung lay răng. Đánh giá trên X quang qua hình ảnh thu hẹp buồng và ống tủy, hình ảnh tiêu chân răng, hình ảnh lá cứng và khe dây chằng quanh răng. Kết quả: Dựa trên tiêu chuẩn định trước, trong thời gian theo dõi trung bình 14,2 tháng, tỷ lệ tồn tại của các răng cấy là 94,7%, tỷ lệ các răng cấy có chức năng ăn nhai và thẩm mỹ tốt là 81,5% và tỷ lệ thành công là 63,1%. Kết luận: Bên cạnh những giải pháp như chỉnh nha hoặc làm hàm giả, cấy chuyển răng tự thân cũng là một giải pháp điều trị thích hợp cho bệnh nhân mất răng.
Từ khóa: Cấy chuyển răng tự thân.
Cấy chuyển răng tự thân là một trong những phương pháp phục hồi răng mất bên cạnh các phương pháp khác như chỉnh nha, phục hình hoặc cắm implant nha khoa. Phương pháp này đã được biết đến từ lâu và đã dần đi vào quên lãng do tỷ lệ thành công thấp. Gần đây, với những hiểu biết mới về sự lành thương của dây chằng quanh răng và thậm chí là lành thương tủy răng sau cấy chuyển thì giải pháp này lại bắt đầu thu hút sự chú ý của các nha sĩ.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về cấy chuyển răng tự thân còn rất ít và tỷ lệ thành công hạn chế. Ngược lại, trên thế giới gần đây có nhiều báo cáo chứng tỏ phương pháp này có tỷ lệ thành công cao dựa trên các bằng chứng khoa học. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng tại vị trí nhận” với mục tiêu: đánh giá kết quả lâm sàng và X quang cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng vị trí nhận.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 34 bệnh nhân tuổi từ 12 đến 37 tại Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và Trường Đại học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 9/2007 đến tháng 3/2010. Tổng số răng cấy là 38, gồm cả răng hàm lớn, răng hàm nhỏ và răng cửa. Các răng cấy do chính tác giả thực hiện và đánh giá theo tiêu chuẩn định trước. Thời gian theo dõi sau phẫu thuật là 1 đến 30 tháng.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp lâm sàng.
Bước 1: Khám lâm sàng, chụp X quang vị trí nhận và các răng dự định làm răng cấy. Lựa chọn răng cấy là các răng ít hoặc không có chức năng ăn nhai, phù hợp về hình thể, kích thước với vị trí nhận. Xác định giai đoạn phát triển chân răng trên phim.
Bước 2: Thực hiện phẫu thuật cấy chuyển răng tự thân.
– Nhổ bỏ răng không còn bảo tồn được tại vị trí nhận. Tạo hình ổ răng nhận bằng mũi khoan phẫu thuật cho phù hợp với chân răng cấy.
– Nhổ răng dự định cấy nhẹ nhàng để bảo tồn tối đa dây chằng quanh răng.
– Xử lý răng cấy: giữ răng ngoài miệng trong môi trường nước muối sinh lý và tuyệt đối không chạm vào dây chằng quanh răng.
+ Nếu răng đang hình thành chân răng thì cấy chuyển ngay sang vị trí nhận.
+ Nếu răng đã đóng kín cuống thì phải điều trị tủy trước hoặc sau cấy 2 tuần.
– Thử răng vào vị trí nhận, hạn chế tối đa thời gian răng ở ngoài miệng.
– Cố định bán cứng răng cấy bằng nẹp dây thép 0,2mm bện 2 sợi và composite, hoặc dùng chỉ lanh khâu giữ răng ở vị trí thấp hơn 0,5 đến 1mm so với mặt cắn răng đối.
– Băng phẫu thuật bằng Coepak hoặc Eugernat. Cho bệnh nhân dùng kháng sinh 7 ngày, xúc miệng bằng dung dịch có Chlohexidine 0,12%.
Bước 3: Theo dõi sau phẫu thuật vào các thời điểm 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng rồi 3,6,12 tháng và sau 2 năm. Cắt chỉ sau 2 tuần, tháo cố định răng sau 1 tháng. Đánh giá tình trạng lâm sàng và X quang vào các thời điểm trên theo tiêu chuẩn định trước.
Bước 4: Xử lý số liệu và báo cáo kết quả theo ba tỷ lệ
– Tỷ lệ tồn tại (survival rate) là tỷ lệ phần trăm các răng đã được cấy chuyển vẫn còn tồn tại trên miệng tại thời điểm tái khám so với tổng số răng đã cấy.
– Tỷ lệ thành công (success rate) là tỷ lệ phần trăm các răng đã được cấy chuyển đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn thành công đã định trước so với tổng số răng đã cấy. Răng cấy thành công là răng lành thương bình thường, không bị tiêu chân hoặc chỉ tiêu bề mặt chân răng nhất thời, mô mềm và mô cứng quanh răng lành thương tốt, tỷ lệ thân/chân răng nhỏ hơn 1.
– Tỷ lệ các răng có chức năng ăn nhai tốt và thẩm mỹ đẹp như các răng đối xứng trên tổng số các răng đã cấy.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích