Đánh giá kết quả cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng tại vị trí nhận

Đánh giá kết quả cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng tại vị trí nhận

Cấy chuyển răng tự thân là lấy    các răng    mọc ngầm, mọc    kẹt hoặc    đã    mọc    nhưng ít chức năng mang từ vị trí này cấy vào vị trí khác trên cung hàm của cùng một cơ thể. Vị trí nhận có thể là huyệt ổ vừa mới nhổ răng hoặc được tạo ra bằng khoan phẫu thuật. Mục tiêu: Nhận xét kết quả lâm sàng và X quang cấy chuyển răng tự thân ngay sau khi nhổ răng vị trí nhận. Phương pháp: nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu 22 răng cấy trên 20 bệnh nhân tuổi từ 19 đến 37 tại bệnh viện Việt Nam – Cu Ba và Trường đại học y Hà Nội trong thời gian từ tháng 09/2007 đến tháng 09/2009. Trong đó có 18 bệnh nhân được cấy chuyển răng khôn đến vị trí răng hàm lớn thứ nhất hoặc thứ hai hàm dưới. Sau cấy các răng được cố định bằng nẹp dây thép và composite. Trong thời gian theo dõi, đánh giá lâm sàng qua các chỉ số lành thương vùng quanh răng, thử nghiệm gõ răng và lung lay răng. Đánh giá trên X quang qua hình ảnh thu hẹp buồng và ống tủy, hình ảnh tiêu chân răng, hình ảnh lá cứng và khe dây chằng quanh răng. Kết quả: Dựa trên tiêu chuẩn định trước, trong thời gian theo dõi 24 tháng, có 1 trường hợp răng cấy chuyển bị dính khớp, tỷ lệ tồn tại của các răng cấy là 91%, tỷ lệ thành công là 73%. Thẩm mỹ của vùng nha chu tự nhiên, chức năng ăn nhai tốt và hình ảnh X quang cho thấy xương ổ răng phát triển bình thường. Kết luận: Bên cạnh những biện pháp như chỉnh nha hoặc làm hàm giả, cấy chuyển răng tự thân cũng là một giải pháp điều trị thích hợp cho bệnh nhân mất răng.
Từ khóa: cấy chuyển răng tự thân.
I. ĐẶT VAN ĐỂ
Cấy chuyển răng tự thân là một trong những phương pháp phục hồi răng mất bên cạnh các phương pháp khác như chỉnh nha, phục hình hoặc cắm implant nha khoa. Phương pháp này đã được biết đến từ lâu và đã dần đi vào quên lãng do tỷ lê thành công thấp, xong gần đây, với những hiểu biết mới về sự lành thương của dây chằng quanh răng và thậm chí là lành thương tủy răng sau cấy chuyển thì giải pháp này lại bắt đầu thu hút sự chú ý của các nha sĩ.
Ớ Việt Nam, các công trình nghiên cứu về cấy chuyển răng tự thân còn rất ít và tỷ lê thành công hạn chế. Ngược lại, gần đây trên thế giới có nhiều báo cáo chứng tỏ phương pháp này có tỷ lệ thành công cao dựa trên các bằng chứng khoa học. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả cấy chuyển răng tự thân ngay sau nhổ răng tại vị trí nhận” với mục tiêu: nhận xét kết quả lâm sàng và Xquang cấy chuyển răng tự thân ngay sau khi nhổ răng vị trí nhận.
n. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
1.    Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên 20 bệnh nhân tuổi từ 19 đến 37 tại bệnh viện Việt Nam
–    Cu Ba và Trường đại học y Hà Nội trong thời gian từ tháng 9/2007 đến tháng 9/2009. Tổng số răng cấy là 22, trong đó có 19 răng khôn được cấy chuyển đến vị trí răng hàm lớn thứ nhất hoặc thứ hai hàm dưới, 2 răng hàm nhỏ và 1 răng nanh ngầm được cấy chuyển về đúng vị trí trên cung hàm. Các răng cấy do chính tác giả thực hiên và đánh giá theo tiêu chuẩn đinh trước. Thời gian theo dõi sau phẫu thuật là 1 đến 24 tháng.
2.    Phương pháp nghiên cứu:
Chiến lược nghiên cứu là nghiên cứu can thiệp lâm sàng tiến cứu.
Bước 1: Khám lâm sàng, chụp X quang vi trí nhận và các răng dự đinh làm răng cấy. Lựa chọn răng cấy phù hợp về hình thể, kích thước và xác đinh giai đoạn phát triển chân răng trên phim.
Bước 2: Thực hiện phẫu thuật cấy chuyển răng
–    Nhổ bỏ răng không còn bảo tồn được tại vi trí nhận. Tạo hình ổ răng nhận bằng mũi khoan phẫu thuật cho phù hợp với chân răng cấy.
–    Nhổ răng dự đinh cấy nhẹ nhàng để bảo tồn tối đa dây chằng quanh răng.
–    Xử lý răng cấy: giữ răng ngoài miệng trong môi trường nước muối sinh lý và tuyệt đối không chạm vào dây chằng quanh răng.
+ Nếu răng đang hình thành chân răng thì cấy chuyển ngay sang vi trí nhận.
+ Nếu răng đã đóng kín cuống thì phải điều tri tủy trước hoặc sau cấy 2 tuần.
–    Thử răng vào vi trí nhận, hạn chế tối đa thời gian răng ở ngoài miệng.
–    Cố đinh bán cứng răng cấy bằng nẹp dây thép 0,2mm bện 2 sợi và composite, hoặc dùng chỉ lanh khâu giữ răng ở vi trí thấp hơn 0,5 đến 1mm so với mặt cắn răng đối.
–    Băng phẫu thuật bằng Coepark hoặc Eugernat. Cho bệnh nhân dùng kháng sinh 7 ngày, xúc miệng bằng dung dich Chlohexidine 0,12%.
Bước 3: Theo dõi sau phẫu thuật vào các thời điểm 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng rồi 3,6,12 tháng và sau 2 năm. Cắt chỉ sau 2 tuần, tháo cố đinh răng sau 1 tháng. Đánh giá tình trạng lâm sàng và X quang vào các thời điểm trên theo tiêu chuẩn đinh trước.
Bước 4: Xử lý số liệu và báo cáo kết quả theo hai tỷ lệ
–    Tỷ lệ tồn tại (survival rate) là tỷ lệ phần trăm các răng đã được cấy chuyển vẫn còn tồn tại trên miệng tại thời điểm tái khám so với tổng số răng đã cấy.
–    Tỷ lệ thành công (success rate) là tỷ lệ phần trăm các răng đã được cấy chuyển đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn thành công đã đinh trước so với tổng số răng đã cấy.
Răng cấy thành công là răng lành thương bình thường, không bi tiêu chân, mô mềm và mô cứng quanh răng lành thương tốt, tỷ lệ thân/chân răng nhỏ hơn 1.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment