Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức

Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức

Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.Theo Đồng thuận giữa các Hiệp hội năm 2007 về Xử trí các bệnh lý độngmạch ngoại vi (TASC II), bệnh thiếu máu chi cấp tính được định nghĩa là giảmđột ngột tưới máu chi gây ra đe dọa tiềm tàng đối với sự sống của chi [1] . Bệnhnhân đến muộn hơn 72 giờ sau khi có triệu chứng khởi phát của thiếu máu cấpđược xem là bị thiếu máu chi bán cấp, bệnh nhân đến muộn hơn 2 tuần sau khicó triệu chứng khởi phát được xem là bị thiếu máu chi mạn tính.Bệnh thiếu máu chi cấp tính là một cấp cứu nội – ngoại khoa mạch máu,đòi hỏi phải nhập viện kịp thời, chẩn đoán nhanh và điều trị cấp cứu.Các nhóm nguyên nhân chính của thiếu máu cấp tính chi gây ra bởithuyên tắc mạch (embolism) từ tim hoặc các nhánh động mạch lớn hoặcnghẽn mạch (thrombosis) [2] , [3] . Ngoài ra có thể do chấn thương động mạchvà nguyên nhân khác. Thuyên tắc mạch (Embolism) là do vật gây tắc từ nơikhác di chuyển đến gây tắc động mạch. Đó có thể là cục máu đông đơn thuầnhay phối hợp với các chất vôi hóa, mảng vữa xơ hay các tổ chức sùi nhiễmkhuẩn, và vị trí khởi phát cục máu đông hoặc là ở tim hoặc là ở động mạch.Nghẽn mạch (Thrombosis) là hiện tượng máu cục được hình thành tại chỗ gâytắc lòng mạch trên cơ sở thương tổn mạch máu đã có từ trước. Chấn thương,đụng dập động mạch; vết thương động mạch hoặc tổn thương động mạch dothầy thuốc (chọc catheter), chấn thương do chèn ép tổ chức, do garô kéo dàihoặc do chôn vùi (hội chứng vùi lấp) đều có thể gây tắc động mạch cấp.Cuộc cách mạng trong điều trị bệnh thiếu máu cấp tính ở chi, làm giảmtỷ lệ tử vong và cắt cụt chi rõ rệt, xảy ra sau sự ra đời của kỹ thuật lấy cụchuyết khối do Fogarty lần đầu tiên sử dụng ống thông có bóng đưa vào tronglòng mạch để lấy vật tắc vào năm 1963 [4] và sự ra đời của Heparin (1914)dẫn tới việc sử dụng Heparin trước trong và sau mổ [5] . Việc điều trị phẫuthuật các trường hợp tắc động mạch cấp tính đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều, là nhân tố quyết định không chỉ đến sự sống còn của chi mà còn cả sựsống còn của bệnh nhân [6] . Tuy nhiên tỷ lệ tử vong cũng như cắt cụt sauphẫu thuật vẫn còn cao (10 – 25%) theo một số thống kê [7] , [8] . Điều này làdo kết quả của phẫu thuật tái lưu thông mạch máu có thể chịu ảnh hưởng bởimột số yếu tố nguy cơ, có thể liệt kê một vài yếu tố như tuổi bệnh nhân, cácyếu tố nguy cơ tim mạch có từ trước, thời gian và thời điểm các triệu chứngcấp tính [9] , [10] .Qua thực tế lâm sàng trong những năm gần đây tại các bệnh viện nóichung và bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức nói riêng chúng tôi nhận thấy, trongkhi các cấp cứu chấn thương – vết thương mạch máu ngoại vi chiếm tỷ lệkhoảng 2% cấp cứu ngoại chung và có kết quả điều trị tốt [11] thì số lượngbệnh nhân bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch ngày càng nhiều,nguyên nhân đa dạng [12] .Bên cạnh một số đề tài nghiên cứu khu trú về chi trên hoặc chi dưới, đểcó được đánh giá tổng thể tình hình thiếu máu chi cấp tính do bệnh lý nói chung tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, tìm hiểu một số yếu tố tiên lượngbệnh, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức” vớihai mục tiêu:1. Đánh giá kết quả điều trị bệnh thiếu máu chi cấp tính do tắc độngmạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.2. Nhận xét một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh thiếu máuchi cấp tính do tắc động mạch tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức

Leave a Comment