ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỂU TRỊ Bổ TRỢ HOÁ CHẤT PHÁC ĐỔ ADRIAMYCIN-CYCLOPHOSPHAMID TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ vú GIAI ĐOẠN n-III VỚI ER DƯƠNG TÍNH CÓ ĐIỂU TRỊ NỘI TIẾT
Ung thư vú (UTV) là bênh ung thư (UT) phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới cũng như ở Viêt Nam [1]. Mặc dù tỷ lê mắc UTV có xu hướng tăng trong những năm gần đây nhưng tỷ lê chết do bênh này vẫn từng bước được cải thiên nhờ các thành tựu đạt được trong phòng bênh, phát hiên bênh sớm, chẩn đoán và điều trị [17], [26], [30]. Điều trị UTV là sự phối hợp điển hình giữa các phương pháp điều trị tại chỗ, tại vùng bằng phẫu thuật và xạ trị với các phương pháp điều trị toàn thân bằng hoá chất và nôi tiết [21]. UTV giai đoạn II-III chiếm phần lớn (trên 80%) trong số các bênh nhân UTV điều trị tại Bênh viên K [3], [4] . Điều trị bổ trợ toàn thân (hê thống) chủ yếu được áp dụng cho bênh nhân ở 2 giai đoạn này, nhất là kết quả mô bênh học sau mổ cho thấy đã di căn 1 hạch nách cùng bên trở lên [7]. Hai yếu tố có tính chất quyết định điều trị bổ trợ là tình trạng thụ thể estrogen và tình trạng di căn hạch nách [2], [30], [38], [44], [52], [70]. Theo nghiên cứu của Chương trình quốc gia về điều trị bổ trợ UTV của Hoa Kỳ cho thấy điều trị bổ trợ bằng hoá chất phác đổ đa hoá trị liêu giảm được 24% tỷ lê tái phát và 14% tỷ lê tử vong sau 5 năm cho bênh nhân UTV giai đoạn II-III đã có di căn hạch nách [74]. Hầu hết các nghiên cứu được tiến hành trên thế giới từ những năm 1970 trở lại đây đều cho rằng bênh nhân UTV có thụ thể nôi tiết dương tính đáp ứng cao với điều trị nôi tiết (từ 60- 80%) trong khi tỷ lê này chỉ là dưới 10% ở nhóm bênh nhân có thụ thể nôi tiết âm tính [8], [11], [12], [13], [21], [68], [73], [75], [94], [146]. Tuy nhiên, với các trường hợp có thụ thể estrogen dương tính vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất giữa 2 trường phái là áp dụng điều trị nôi tiết bổ trợ đơn thuần hay kết hợp điều trị hoá chất với nôi tiết [71], [72]. Kết quả của môt số nghiên cứu trên thế giới cũng phản ánh phần nào 2 quan điểm này. Ejlertsen nghiên cứu cho thấy không có sự vượt trôi về tỷ lê sống sau 5 năm giữa 2 nhóm được điều trị bổ trợ bằng hoá chất hoặc nôi tiết đơn thuần với tỷ lê sống thêm toàn bô tương ứng là 66% và 63% (p>0,05)[61], [62], [63]. Davidson qua công trình nghiên cứu đăng trên tạp chí ung thư học lâm sàng Hoa Kỳ cho thấy phối hợp hoá chất bổ trợ phác đổ AC (adriamycin và cyclophosphamid) với cắt buổng trứng sau đó dùng tamoxifen trên bênh nhân UTV giai đoạn II-III có thụ thể estrogen dương tính và đã di căn hạch nách sau mổ đạt kết quả sống thêm sau 5 năm là 79% cao hơn có ý nghĩa so với nhóm được điều trị bổ trợ nôi tiết đơn thuần bằng cắt buổng trứng và dùng tamoxifen là 69,4% [68]. Tại Việt Nam, môt nghiên cứu đa quốc gia đã được tiến hành trên 709 trường hợp UTV còn kinh nguyệt ở giai đoạn mổ được cho thấy điều trị bổ trợ bằng cắt buổng trứng kết hợp uống tamoxifen đạt tỷ lệ sống thêm sau 5 năm toàn bô là 78% so với 70% ở nhóm không được điều trị [20], [21]. Về vai trò của hoá trị liệu bổ trợ được đề cập tới qua nghiên cứu của Nguyễn Bá Đức trên 151 trường hợp UTV giai đoạn II-III tại Bệnh viện K từ 1994 đến 1998. Qua theo dõi sau 5 năm thu được tỷ lệ sống thêm là 67,7% [16]. Tuy nhiên, hiệu quả khi phối hợp 2 phương pháp điều trị bổ trợ bằng hoá chất kết hợp với nôi tiết vẫn còn ít tác giả đề cập.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích