Đánh giá kết quả điều tri gãy cổ xương đùi do chấn thương bằng phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với xi măng

Đánh giá kết quả điều tri gãy cổ xương đùi do chấn thương bằng phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với xi măng

Gẫy cổ xương đùi (GCXĐ) là một bênh hay gặp ở người cao tuổi, nhất là ở phụ nữ. GCXĐ nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng phương pháp sẽ có rất nhiều biến chứng, nguy cơ tử vong cao. Nghiên cứu kết quả bước đầu theo dõi liên tục 24 Bênh nhân (BN) GCXĐ do chấn thương được điều trị bằng phẫu thuật thay khớp háng toàn phần (TKHTP) với xi măng: Trong đó 8 Nam, 16 Nữ; tuổi trung bình 67,88 (tuổi thấp nhất 49; tuổi cao nhất 87);Thời gian theo dõi trung bình 4,8 tháng .
Kết quả: Tất cả BN đều liền vết mổ kỳ đầu, không có BN nào bị nhiễm trùng; 2 BN tử vong (01 bênh nhân tử vong ngày thứ 8 sau mổ nghi do tắc mạch phổi, 01 bênh nhân tử vong ngày thứ 30 sau mổ); 19/22 BN đạt kết quả rất tốt và tốt ( 86,5%); 3/22 BN đạt kết quả trung bình ( 13,5%); Không có BN nào có kết quả kém (0%); 01 BN bị trật khớp sau mổ phải TKHTP lại; 02 bênh nhân có biểu hiên đau khớp háng sau mổ trong đó có 01 bênh nhân phải dùng thuốc giảm đau. Qua kết quả trên chúng tôi nhận thấy rằng: TKHTP với xi măng là phương pháp điều trị có kết quả tốt cho những bênh nhân GCXĐ do chấn thương ( tỷ lê tốt và rất tốt đạt 86,5%). Tuy nhiên đây mới chỉ là kết quả bước đầu, cần phải có nghiên cứu, đánh giá kết quả xa hơn nữa mới có thể nhận xét được tuổi thọ của khớp.
I.    ĐẶT VẤN ĐỂ
Gãy cổ xương đùi là một bênh hay gặp ở người già đặc biệt là phụ nữ. Theo thống kê ở Thụy Sỹ năm 1990 cứ 100.000 người ở độ tuổi trên 55 thì có 50 người bị GCXĐ [2]. Còn ở Mỹ, cứ
100.0    người thì có 63,9 phụ nữ và 27,7 nam giới bị GCXĐ; Ở nam mỹ hàng năm có tới 280.000 người bị GCXĐ và dự tính có thể tăng đến 500.000 người vào năm 2040; chi phí có thể lên tới 9,8 tỷ USD/năm….Cùng với sự gia tăng của tuổi thì tỷ lê GCXĐ cũng tăng. Ở Viêt Nam chưa có thống kê về vấn đề này.
GCXĐ nếu không được điều trị sẽ gây nên tàn phế suốt đời hoặc tử vong. Hiên nay có rất nhiều phương pháp điều trị GCXĐ như: Điều trị bảo tổn, KHX, TKHBP hoặc TKHTP…Tuy nhiên lưa chọn phương pháp điều trị nào cho phù hợp còn là một vấn đề lớn cần phải được nghiên cứu.
–     Điều trị bảo tổn bằng phương pháp kéo liên tục hoặc bó bột cho kết quả liền xương thấp (« 30%) trong khi tỷ lê biến chứng cao, thậm chí tử vong .
–    Điều trị bằng phương pháp kết hợp xương (KHX) có tỷ lê liền xương cao (« 70%) song ở người càng nhiều tuổi thì tỷ lê liền xương càng thấp và tỷ lê hoại tử chỏm càng cao (theo Barnes thì đối với BN trên 70 tuổi chỉ có 5% đạt liền xương trước 3 tháng) [7]. 
–    TKHBP đã từng được coi như một giải pháp cho những BN GCXĐ đã có biến chứng không liền, hoại tử chỏm ( trong thập kỷ 50 – 60). Mặc dù vậy TKHBP vẫn còn nhiều hạn chế (biến chứng mòn ổ cối, lỏng cán chỏm, đau sau mổ…).
–    TKHTP cũng đã và đang được ứng dụng rộng rãi để điều trị GCXĐ và tỏ ra có nhiều ưu điểm. Cho đến nay TKHTP là phương pháp điều trị được coi là hiệu quả nhất với những GCXĐ không thể điều trị bằng KHX hay đã có biến chứng (không liền, tiêu chỏm…).
Ở Việt Nam phẫu thuật thay khớp háng(TKH) đã được thực hiện lần đầu từ năm 1960, tuy nhiên khoảng 10 năm trở lại đây mới được áp dụng phổ biến ở một số trung tâm lớn. Đã có một số tác giả báo cáo về vấn đề này như Nguyễn Văn Nhân, Ngô Bảo Khang, Đoàn Lê Dân, Nguyễn Trung Sinh, Nguyễn Tiến Bình… Trong đó kết quả đánh giá chức năng sau mổ đạt tỷ lệ cao (72,9% – 98,37%) [4]. Tuy nhiên hầu hết các tác giả đều đánh giá kết quả chung (BN bị thoái hoá khớp háng, BN bị GCXĐ và một số nguyên nhân khác…), cho đến hiện nay chưa có một nghiên cứu nào đi sâu phân tích kết quả, chỉ định cũng như những biến chứng xa sau mổ của GCXĐ do chấn thương.
Để góp phần đánh giá kết quả xa, hoàn thiện về mặt chỉ định TKHTP cũng như nghiên cứu một số biến chứng hay gặp đối với BN bị GCXĐ do chấn thương trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: ‘‘Đánh giá kết quả điều tri gãy cổ xương đùi do chấn thương bằng phẫu thuật thay khớp háng toàn phần với xi măng” nhằm hai mục tiêu:
1.    Đánh giá kết quả điều trị GCXĐ do chấn thương bằng phẫu thuật TKHTP với xi măng.
2.    Phún tích một số yếu tố liên quan ảnh hưởng đến kết quả điều trị trên cơ sở đó rút ra chỉ
định, chống chỉ định.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment