Đánh giá kết quả điều trị rối loạn natri máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng

Đánh giá kết quả điều trị rối loạn natri máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng

Tại  bệnh  viện  Hữu  Nghị  Việt  Đức,  chấn thương sọ não (CTSN) là nguyên nhân số một gây tử vong trong những năm qua. Độ nặng của CTSN được quyết định bởi tổn thương tiên phát do cơ chế chấn thương gây ra và tổn thương thứ phát trong sọ như phù não, tăng áp lực nội sọ, thiếu máu não. Tổn thương thứ phát có thể làm cho CTSN nhẹ thành nặng và trở thành nguyên nhân chính gây tử vong ở các bệnh nhân (BN) này. Rối loạn natri máu từ lâu đã được coi là một trong các nguyên nhân chính gây tổn thương thứ phát trong CTSN do natri máu ảnh hưởng đến dịch đi vào hay đi ra khỏi tế bào não và nó liên quan đến sự thay đổi áp lực nội sọ [5, 6]. Hiện nay có rất nhiều bệnh nhân CTSN nặng sau mổ phải điều trị ở phòng hồi sức tích cực. Trong quá trình hồi sức chúng tôi gặp BN rối loạn nồng độ natri máu tương  đối  cao  nhưng  chưa  có  nghiên cứu  nào đánh giá về điều trị của vấn đề này. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài nhằm mục tiêu:

Đánh giá kết quả điều trị rối loạn nồng độ natri máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng.

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được tiến hành trên 140 bệnh nhân sau mổ chấn thương sọ não nặng nằm điều trị tại khoa hồi sức bệnh viện Việt Đức từ tháng 2–  10/2008. Với Glasgow 4  –  8.  Những bệnh nhân bị CTSN có tổn thương ngoài sọ phối hợp, có bệnh lý gây rối loạn natri máu đều được loại khỏi nghiên cứu. Sau khi về hồi sức bệnh nhân được điều trị theo phác đồ tại hồi sức: an thần và hô hấp hỗ trợ bằng máy thở. Bệnh nhân được truyền dịch bằng dung dịch NaCl 0,9% và nuôi dưỡng đường ruột 30 – 40 kcalo/ngày bắt đầu từ ngày thứ 2, tổng lượng dịch là 30 – 40 ml/kg / ngày. Natri được bù theo nhu cầu 2,5 gram, kali 2,5 gram. Huyết động được duy trì HA trung bình > 90 mmHg, PVC từ 8 – 12 cmH2O, hematocrit ≥ 30 %. Bệnh nhân được dùng lợi tiểu khi nước tiểu < 50 ml/h, manitol khi có tình trạng phù não. Chụp CT khi dấu hiệu thần kinh giảm hoặc có dấu hiệu thần kinh khu trú. Nồng độ natri máu được xét nghiệm hàng ngày vào 6h và 18h. Bilan dịch được tính 6h/ lần, bù dịch theo PVC và theo số lượng nước tiểu. Rối loạn natri máu được chia làm 3 mức độ: hạ natri máu khi <135 mmol/l, giảm nặng từ 120 – 125, rất nặng < 120 mmol/l. Tăng natri máu khi >145 mmol/l, tăng nặng khi > 160 mmol/l.

Rối loạn natri máu được coi là một trong các nguyên nhân gây tổn thương não thứ phát, ảnh hưởng nhiều đến kết quả điều trị ở bệnh nhân CTSN. Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị rối loạn nồng độ natri máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não nặng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu cắt ngang, được tiến hành trên 64/140 bệnh nhân bị CTSN nặng tại khoa Hồi sức bệnh viện Việt Đức từ tháng
 2 – 10/2008. Kết quả: BN rối loạn natri là 45,7%, trong đó giảm 37,1% tăng 8,6%. Giảm natri máu: 126 ± 3,4 mmol/l. Tăng natri máu: 162 ± 4,2 mmol/l. Natri cần dùng: 35,34 gr / ngày. Thời gian điều trị giảm natri về bình thường là 3,13 ± 1,25 ngày. Giảm natri máu làm tăng thời gian thở máy (8,53 so với 6,65 ngày) thời gian nằm HS (9,46 so với 7,17 ngày). Thời gian điều trị tăng natri về bình thường 1,59 ± 0,56 ngày. Lượng nước cần dùng: 1,84 lít/ ngày tăng natri máu cũng có thể liên quan tới thời gian thở máy (9,5 so với 6,65 ngày) và thời gian nằm hồi sức (10 ngày so với 7,17 ngày). Tử vong khi có tăng natri máu 66,7%; và giảm Natri máu nặng gặp 25%. Kết luận: tỷ lệ tử vong, thời gian thở máy và nằm hồi sức của bệnh nhân CTSN có rối loạn natri máu cao hơn BN không có rối loạn.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment