ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI BẰNG PHƢƠNG PHÁP THẨM PHÂN PHÚC MẠC TẠI KHOA NỘI THẬN BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG
Đặt vấn đề : Thẩm phân phúc mạc là một phương pháp thay thế thận trongđiều trị suy thận mạn giai đoạn cuối.
Mục tiêu : Đánh giá kết quả lâm sàng của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối điều trị bằng phương pháp thẩm phân phúc mạc. So sánh các chỉ số sinh hóa của bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối điều trị bằng phương pháp thẩm phân
phúc mạc với phương pháp lọc thận nhân tạo.
Kết quả : 47 bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối được điều trị bằng phương pháp thẩm phân phúc mạc(TPPM) từ tháng 10 năm 2009 đến tháng 9 năm 2010, bệnh nhân (BN) có tuổi thấp nhất là 19 tuổi, cao nhất 85 tuổi, tuổi trung bình 40,1. Trong 47 BN có 15 BN được đặt catheter Tenckhoff tại Bệnh viện ĐKTTAG, 32 BN suy thận mạn giai đoạn cuối từ Bệnh viện Chợ Rẩy chuyển về. Huyết áp ≤ 140/80 mmHg chiếm 89%. Tỷ lệ viêm phúc mạc : 1 đợt/51.6 tháng BN, tổng số bệnh nhân viêm phúc mạc : 12 (25.5%), điều trị khỏi : 11 BN, điều trị không khỏi 01 BN : viêm phúc mạc do lao. Các biến chứng khác : Nhiễm trùng
chân ống đơn thuần 6 BN (12,7%), nhiễm trùng đường hầm1 BN (2,1%), nhiễm trùng chân ống kèm VPM 2 BN(4.2%), tắc catheter 2 BN(4.2%), rút catheter 2 BN chuyển qua lọc máu, thoát vị bìu 2 BN(4.2%), catheter sai vị trí 1 BN (2.1%), nứt ống catheter 2 BN(4.2%), Phù phổi cấp 2 BN (4.2%), hội chứng chuyển hóa 1 BN(2.1%), tử vong 1 BN(2.1%). Trị số trung bình ure ở BN TPPM 22.18 ± 10.78 cao hơn so với BN TNT 15.44 ± 6.37 có ý nghĩa thống kê (P 0.02). Trị số trung bình creatinine ở BN TPPM 1044.48± 363.07 cao hơn so với BN TNT 605.81
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất