ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TEO THỰC QUẢN BÁO CÁO 15 BỆNH NHÂN

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TEO THỰC QUẢN BÁO CÁO 15 BỆNH NHÂN

 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TEO THỰC QUẢN BÁO CÁO 15 BỆNH NHÂN

Trần Ngọc Bích, Nguyễn Mai Thuỷ
TÓM TẮT :
Teo thực quản là dị tật khó mổ và tử vong cao hơn các dị tật khác của đường tiêu hoá. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị. 
Mục tiêu nghiên cứu: Teo thực quản là dị tật khó mổ và tử vong cao hơn các dị tật khác của đường tiêu hoá. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng để chẩn đoán teo thực quản và đánh giá kết quả điều trị. 
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hồi cứu, mô tả. Đối tượng bệnh nhi bị teo thực quản. 
Kết quả: Từ 10-2001 tới 8-2009, tại bệnh viện Việt-Đức, chúng tôi đã mổ 13 bệnh nhi bị teo thực quản có rò khí thực quản và 2 bệnh nhi teo thực quản đơn thuần, trong đó mổ một thì 12 BN, mổ nhiều thì 3 BN. Kết quả mổ sống ra viện 10 BN (66,7%) trong đó có một BN mới mở thông dạ dày, chết 4 BN (26,6%) và 1 BN (6,7%) đang điều trị thì gia đình xin về. Chẩn đoán teo thực quản dựa khám lâm sàng và X quang. Tỉ lệ thành công là khá cao nhưng vẫn có thể giảm được tỉ lệ tử vong thấp hơn với kỹ thuật mổ, gây mê và điều trị sau mổ tốt hơn để tránh các biến chứng suy hô hấp, viêm phổi. 
Kết luận: Để giảm tỷ lệ tử vong khi mổ chữa teo thực quản, cần có chẩn đoán sớm, điều trị trước mổ tốt, có kỹ thuật mổ và gây mê tốt, điều trị sau mổ tốt.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Teo thực quản được William Durston mô tả lần đầu tiên vào năm 1670. Năm 1913, Richier mổ thắt đường rò khí – thực quản. Năm 1929, Vogt đã mô tả các dị dạng của thực quản, trong đó có thể bệnh rò khí – thực quản. Vào cuối những năm 30, nhiều tác giả đã mô tả các phương pháp nhiều thì mổ chữa teo thực quản. Tới năm 1935, một bệnh nhân (BN) đầu tiên sống nhờ mở thông dạ dày. Năm 1941,
Bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống bằng cắt-thắt đường rò và nối thực quản ngay bởi Cameron Haight. Từ những năm 50, phương pháp mổ một thì đã ra đời và tỷ lệ sống sau mổ ngày một cao nhờ tiến bộ của gây mê – hồi sức, của kỹ thuật điều trị trước, trong và sau mổ. Cho tới nay teo thực quản vẫn là một cấp cứu ngoại nhi thuộc loại khó điều trị và tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ sống phụ thuộc chẩn đoán sớm, kỹ thuật mổ và điều trị trước – sau mổ và tình trạng bệnh nhân(1,2,10,9,12). ở Việt nam: bệnh nhân đầu tiên được mổ cứu sống tại Bệnh viện Nhi Trung ương vào năm 1987(8). Tiếp đó một số trung tâm ngoại khoa lớn trong nước cũng thông báo kết quả mổ thành công bệnh nhân đầu tiên của mình như Bệnh viện Nhi Đồng I vào năm 1997(6), Bệnh viện Trung ương Huế vào năm 1998(5)… Tại Bệnh viện Việt-Đức, bệnh nhân được mổ đầu tiên và sống vào năm 2001(11). Tới nay, chúng tôi đã mổ 15 bệnh nhân với kết quả sống 10 và chết 4 và 1 BN đang điều trị thì gia đình xin về. Chúng tôi báo cáo lại những bệnh nhân đã mổ, đánh giá lại quá trình điều trị để rút kinh nghiệm nhằm giảm tỷ lệ tử vong
trong chữa dị tật này

 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment