ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG TÂN SẢN NỘI BIỂU MÔ VẢY ĐỘ CAO TẠI CỔ TỬ CUNG BẰNG KỸ THUẬT LEEP SAU 5 NĂM TẠI BỆNH VIỆN K

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG TÂN SẢN NỘI BIỂU MÔ VẢY ĐỘ CAO TẠI CỔ TỬ CUNG BẰNG KỸ THUẬT LEEP SAU 5 NĂM TẠI BỆNH VIỆN K

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG TÂN SẢN NỘI BIỂU MÔ VẢY ĐỘ CAO TẠI CỔ TỬ CUNG BẰNG KỸ THUẬT LEEP SAU 5 NĂM TẠI BỆNH VIỆN K
Chu Hoàng Hạnh1, Trần Trung Toàn2 130-135

Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị sau 5 năm các tổn thương tân sản nội biểu mô vảy độ cao (HSIL) cổ tử cung bằng kĩ thuật LEEP Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 227 bệnh nhân có tổn thương tân sản nội biểu mô vảy độ cao được điều trị bằng kỹ thuật LEEP tại bệnh viện K từ 1/2006đến 6/2017.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân khi điều trị là 39,9 ± 6,2 tuổi, nhóm tuổi hay gặp nhất là 31-40 tuổi (chiếm 46,3%). Tỷ lệ âm tính HPV sau điều trị 5 năm đạt 98,2%. Tỷ lệ tái phát sau 5 năm là 1,8%, sau 10 năm là 3,1%. Biến chứng xa thường gặp nhất là chít hẹp lỗ cổ tử cung (11,1%). Tỷ lệ có thai lại sau điều trị là 20,7%.
Kết luận: Khoét chóp bằng vòng cắt đốt điện (LEEP) trong điều trị các tổn thương tân sản nội biểu mô vảy độ cao có hiệu quả tốt, dễ thực hiện, có khả năng bảo tồn chức năng sinh sản ở các phụ nữ trẻ chưa đủ con

Trên phạm vi toàn cầu, ung thư cổ tử cung (UTCTC) là một trong những ung thư hệ sinh dục nữ giới hay gặp nhất. Theo GLOBOCAN 2020, mỗi năm trên thế giới 604.127 trường hợp mới mắc bệnh (85% ở các nước kém và đang phát triển) với 341.832 phụ nữ tử vong [7]. Ở Việt Nam, UTCTC là một trong những ung thư có tỉ lệ mắc cao, có xu hướng ngày càng tăng và là ung thư gây tử vong hàng đầu cho phụ nữ [7].
UTCTC là một bệnh tiến triển tương đối chậm, đặc biệt ở giai đoạn tiền lâm sàng, có thể kéo dài từ 5-10 năm. Tổn thương tiền ung thư CTC hay ung thư tiền xâm nhập cổ tử cung bao gồm tân sản nội biểu mô CTC (Cervical Intraepithelial Neoplasia – CIN), tổn thương nội biểu mô vảy độ thấp (Low grade of squamous intraepithelial lesion – LSIL), tổn thương nội biểu mô vảy độ cao (High grade of squamous intraepithelial lesion – HSIL). Các tổn thương tiền ung thư này thường tiến triển thành ung thư xâm nhập, khả năng nguy cơ tiến triển tăng dần theo thời gian. Điều trị bệnh trong giai đoạn tiền ung thư đem lại hiệu quả rất cao, làm giảm tỷ lệ tiến triển thành ung thư xâm nhập do đó làm giảm tỉ lệ tử vong do bệnh. Điều trị tổn thương tiền ung thư bằng kĩ thuật khoét chóp cổ tử cung bằng dao điện vòng (Loop Electrosurgical Excision Procedure – LEEP) có nhiều ưu điểm: an toàn, dễ thực hiện, giá thành thấp, có thể áp dụng rộng rãi với tỷ lệ khỏi bệnh rất cao. Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã chứng tính an toàn, tỷ lệ biến chứng thấp cũng như hiệu quả của kĩ thuật. Tại nước ta hiện nay, kĩ thuật LEEP đã được ứng dụng rộng rãi tại nhiều cơ sở y tế. Tuy nhiên, đến nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của kĩ thuật này trong điều trị các tổn thương tiền ung thư cổ tử cung HSIL sau 5 năm. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị sau 5 năm các tổn thương tân sản nội biểu mô vảy độ cao (HSIL) cổ tử cung bằng kĩ thuật LEEP tại bệnh viện K trong khoảng thời gian từ 1/2006 đến 6/2017

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG TÂN SẢN NỘI BIỂU MÔ VẢY ĐỘ CAO TẠI CỔ TỬ CUNG BẰNG KỸ THUẬT LEEP SAU 5 NĂM TẠI BỆNH VIỆN K

Leave a Comment