Đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung tại bệnh viện k Hà Nội

Đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung tại bệnh viện k Hà Nội

Ung thư cổ tử cung là một bệnh khá phổ biến nếu được phát hiện và điều trị sớm có thể kéo dài được tuổi thọ. Theo một nghiên cứu về kết quả điều trị bệnh nhân ung thư cổ tử cung tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân sống sau điều trị 5 năm bằng kỹ thuật nạp nguồn sau Caesium 137 khá cao (65,5%) [1]. Tuy nhiên, kết quả xạ trị ung thư cổ tử cung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích thước của khối u, loại tế bào và đặc biệt là giai đoạn của bệnh ung thư cổ tử cung. Phác đồ điều trị ung thư cổ tử cung đã được hoàn thiện vào những năm 80 của thế kỷ XX. Những năm cuối của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ XX, ung thư cổ tử cung chỉ được điều trị bằng phẫu thuật đơn thuần. Đối với ung thư giai đoạn sớm, điều trị phóng xạ có tác dụng triệt để như phương pháp phẫu thuật. Phương pháp điều trị phóng xạ cổ điển đã được thay đổi qua nhiều năm nhằm tăng hiệu quả điều trị và giảm biến chứng của phóng xạ trong điều trị. Vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, một kỹ thuật điều trị mới, kỹ thuật nạp nguồn sau (afterloading) được Chassagne và Bierquin đề xuất và áp dụng đầu tiên. Kỹ thuật điều trị phóng xạ mới dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về sự phân bố liều đối với khối u, với các tổ chức xung quanh như bàng quang, trực tràng, tổ chức hạch, tiểu khung, và bảo vệ an toàn cho nhân viên y tế, đồng thời có tính đến sức chịu đựng của bệnh nhân khi điều trị.
Từ năm 1978, bệnh viện K bắt đầu điều trị ung thư cổ tử cung bằng đặt ống Radium 226 phối hợp với phẫu thuật dựa vào những phương pháp tính toán kinh điển. Đến 1995, với sự giúp đỡ của nước Cộng hoà Pháp, bệnh viện K bắt đầu ứng dụng kỹ thuật mới nạp nguồn sau vào điều trị ung thư cổ tử cung. Kết quả điều trị của phương pháp này rất khả quan có rất ít tác dụng phụ, giảm được nhiều tai biến, giảm tỷ lệ tái phát và di căn của ung thư cổ tử cung. Kết quả nghiên cứu trên những bệnh nhân ung thư cổ tử cung giai đoạn từ IB đến IIA được điều trị tại bệnh viện K trong giai đoạn 1992 – 2003 cho thấy tỷ lệ biến chứng sau xạ trị rất thấp, chỉ là 0,67 lần/bệnh nhân [2]. Để tiếp tục đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị này, nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: Mô tả kết quả xạ trị ung thư cổ tử cung.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện trên 70 bệnh nhân ung thư cổ tử cung được điều trị tại bệnh viện K trong thời gian 2 năm (2008 – 2009). Nghiên cứu sử dụng phương pháp theo dõi dọc bệnh nhân được xạ trị và hiệu quả điều trị. Các biến số nghiên cứu bao gồm các đặc trưng cá nhân của người bệnh, phương pháp điều trị, kết quả điều trị, kết quả xạ hình, tái phát và di căn. Số liệu được nhập và xử lý trên phần mềm SPSS 10.0. Test ÷2  và giá trị p được sử dụng để so sánh sự khác biệt về kết quả xạ hình trước, trong và sau xạ trị.
Ung thư cổ tử cung nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ có kết quả tốt và hạn chế được tái phát và di căn. Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung, tái phát và di căn sang các cơ quan khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp nghiên cứu theo dõi dọc 70 bệnh nhân được điều trị và đánh giá hiệu quả điều trị tại Bệnh viện K, giai đoạn 2008 – 2009. Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn sau xạ trị khá cao chiếm 84,3%, đáp ứng một phần chiếm 5,7% và không đáp ứng chiếm 10%. Tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật không còn tế bào ung thư tại cổ tử cung chiếm 87,5% và tỷ lệ bệnh nhân còn tế bào ung thư tại cổ tử cung chiếm 12,5%. Tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật có di căn hạch thấp chiếm 12,5%, trong đó di căn hạch chậu trong bên phải có 3/48 bệnh nhân, bên trái có 2/48 bệnh nhân, di căn hạch cả hai bên có 1/48 bệnh nhân và di căn hạch chậu ngoài có 4/48 bệnh nhân. Kết luận: phẫu thuật và xạ trị ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm có kết quả tốt, hạn chế tái phát và di căn.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment