Đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung tại bệnh viện k Hà Nội

Đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung tại bệnh viện k Hà Nội

Ung thư cổ tử cung nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ có kết quả tốt và hạn chế được tái phát và di căn. Mục tiêu:đánh giá kết quả điều trị ung thư cổ tử cung, tái phát và di căn sang các cơ quan khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:sử dụng phương pháp nghiên cứu theo dõi dọc70 bệnh nhân được điều trị và đánh giá hiệu quả điều trị tại Bệnh  viện K, giai đoạn 2008 – 2009. Kết quả:tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn sau xạ trị khá cao chiếm 84,3%, đápứng một phần chiếm 5,7% và không đáp ứng chiếm 10%. Tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật không còn tế bào ung thư tại cổ tử cung chiếm 87,5% và tỷ lệ bệnh nhân còn tế bào ung thư tại cổ tử cung chiếm 12,5%. Tỷ lệ bệnh nhân sau phẫu thuật có di căn hạch thấp chiếm 12,5%, trong đó di căn hạch chậu trong bên phải có 3/48 bệnh nhân, bên trái có 2/48 bệnh  nhân, di căn
hạch cả hai bên có 1/48 bệnh nhân và di cănhạch chậu ngoài có 4/48 bệnh nhân. Kết luận: phẫu thuật và xạ trị ung thư cổ tử cung giai đoạn sớm có kết quả tốt, hạn chế tái phát và di căn

Ung thư cổ tử cung là một bệnh khá phổ biếnnếu được phát hiện và điều trị sớm có thể kéo dài
được  tuổi  thọ.  Theo  một  nghiên  cứu  về  kết  quả điều  trị  bệnh  nhân  ung  thư  cổ  tử  cung  tại  Việt Nam,  tỷ  lệ  bệnh  nhân  sống  sau  điều  trị  5  nămbằng  kỹ  thuật  nạp  nguồn  sau  Caesium  137  khá cao (65,5%) [1]. Tuy nhiên, kết quả xạ trị ung thư cổ tử cung phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích thước của khối u, loại tế bào và đặc biệt  là giai đoạn của bệnh ung thư cổ tử cung. Phác đồ điều trị  ung  thư  cổ  tử  cung  đã  được  hoàn  thiện  vào những  năm 80  của  thế  kỷ XX.  Những  năm  cuối của  thế  kỷ  19  và  đầu  thế  kỷ  XX,  ung  thư  cổ  tử cung chỉ được điều trị bằng phẫu thuật đơn thuần.
Đối với ung thư giai đoạn sớm, điều trị phóngxạ có tác dụng triệt để như phương pháp phẫu thuật. Phương pháp điều trị phóng xạ cổ điển đã được thay đổi qua nhiều năm nhằm tăng hiệu quả điều trị và giảm biến chứng của phóng xạ trong điều trị. Vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, một kỹ thuật  điều  trị  mới,  kỹ  thuật  nạp  nguồn  sau (afterloading) được Chassagne và Bierquin đề xuất và áp dụng đầu tiên. Kỹ thuật điều trị phóng xạ mới dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về sựphân bố liều đối với khối u, với các tổ chức xung quanh như  bàng  quang,  trực  tràng,  tổ  chức  hạch,  tiểu khung,  và  bảo  vệ  an  toàn  cho  nhân  viên  y  tế,đồng  thời  có  tính  đến  sức  chịu  đựng  của  bệnh nhân khi điều trị.
Từ  năm  1978,  bệnh  viện  K  bắt  đầu  điều  trị ung  thư  cổ  tử  cung  bằng  đặt  ống  Radium  226 phối hợp với phẫu thuật dựa vào những phương pháp tính toán kinh điển. Đến 1995, với sự giúp đỡ  của  nước  Cộng  hoà  Pháp,  bệnh  viện  K  bắt đầu  ứng  dụng  kỹ  thuật  mới  nạp  nguồn  sau  vào điều trị ung thư cổ tử cung. Kết quả điều trịcủa phương pháp này rất khả quan có rất ít tác dụng phụ,  giảm  được  nhiều  tai  biến,  giảm  tỷ  lệ  tái phát và di căn của ung thư cổ tử cung. Kết quả nghiên cứu trên những bệnh nhân ung thư cổ tử cung  giai  đoạn  từ  IB  đến  IIA  được  điều  trị  tại bệnh  viện  K  trong  giai  đoạn  1992  –  2003  cho thấy  tỷ  lệ  biến  chứng  sau  xạ  trị  rất  thấp,  chỉ  là 0,67  lần/bệnh  nhân  [2].  Để  tiếp  tục  đánh  giá hiệu  quả  của  phương  pháp  điều  trị  này,  nghiên cứu  được  thực  hiện  nhằm  mục  tiêu:  Mô  tả  kết quả xạ trị ung thư cổ tử cung.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment