Đánh giá kết quả nong van hai lá ở những bệnh nhân ≥ 55 tuổi bị hẹp van hai lá khít
Hẹp van hai lá (HHL) là bệnh van tim do thấp hay gặp nhất, chiếm khoảng 40,3% số người mắc bệnh van tim. Đây là một bệnh nặng, có nhiều biến chứng nguy hiểm luôn đe doạ tính mạng người bệnh. Điều trị nội khoa bệnh HHL khít chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi chờ đợi giải quyết triệt để hơn bằng những can thiệp tim mạch hoặc ngoại khoa. Tuy nhiên, trước kia khi chưa có Tim mạch can thiệp, số lượng BN ≥ 55 tuổi bị HHL khít được chỉ định mổ tách van hai lá rất hãn hữu (0 – 0,16%) [2], [4], [5], do có nhiều nguy cơ cao trong phẫu thuật. Khi đó, để kéo dài cuộc sống của những BN này các thầy thuốc vẫn chủ yếu dựa vào điều trị nội khoa với kết quả rất hạn chế. Từ khi phương pháp nong van hai lá (NVHL) bằng bóng qua da ra đời, việc điều trị tận gốc nguyên nhân gây nên các triệu chứng và biến chứng nguy hiểm của HHL khít ở những BN lớn tuổi đã có nhiều hy vọng mới. Nhiều BN lớn tuổi đã được điều trị bằng phương pháp này. Đây là một phương pháp can thiệp tim mạch mới không phẫu thuật, an toàn và hiệu quả [3]. Vấn đề đặt ra là liệu kết quả này có thực sự tốt không cho nhóm BN lớn tuổi và có gì khác biệt so với những BN trẻ tuổi hơn? Trên lý thuyết thì khả năng hồi phục
bệnh của nhóm BN lớn tuổi sẽ kém hơn so với các nhóm BN trẻ tuổi khác. Để góp phần trả lời câu hỏi trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu (NC) đề tài này nhằm hai mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả lâm sàng và huyết động của phương pháp NVHL bằng bóng Inoue qua da ở những BN ≥ 55 tuổi bị HHL khít có so sánh đối chứng với nhóm BN < 55 tuổi .
2. Bước đầu mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả NVHL bằng bóng Inoue qua da ở nhóm BN ≥ 55 tuổi.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Những BN HHL khít sau hội chẩn có chỉ định NVHL bằng bóng Inoue qua da và đã được tiến hành NVHL tại phòng Thông tim của Viện Tim mạch Việt Nam. Các BN sẽ được lấy theo trình tự thời gian từ 1/2004 đến 8/2005 và được chia thành 2 nhóm.
Nhóm 1: gồm các BN có độ tuổi ≥ 55 tuổi.
Nhóm 2: gồm các BN có độ tuổi < 55 tuổi Trên thực tế số lượng BN được NVHL ≥ 55 tuổi ít hơn nhiều so với số BN < 55 tuổi. Để đảm bảo tính khách quan chúng tôi lấy nhóm 1 là 35 BN, nhóm 2 là 70 BN theo phương pháp như sau: BN nhóm 1 được lấy theo trình tự thời gian; BN nhóm 2 BN sẽ được lấy ngẫu nhiên theo cách lấy 2 BN < 55 tuổi gần nhất trước và sau BN ≥ 55 tuổi vừa được nong van hai lá.
1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng
– HHL khít (diện tích lỗ van – MVA, trên siêu âm < 1,5 cm2)
– Không có hở van hai lá (HoHL) và/hoặc hở van động mạch chủ (HoC) mức độ > 2/4 kèm theo.
– Không có huyết khối nhĩ trái hoặc tiểu nhĩ trái trên siêu âm tim (SA) qua thành ngực (hoặc SA tim qua thực quản nếu BN bị rung nhĩ).
– Hình thái van trên SA phù hợp cho NVHL, dựa theo thang điểm trên của Wilkins: Điểm Wil- kins ≤ 11 điểm.
Nong van hai lá (NVHL) qua da bằng bóng Inoue là một kỹ thuật can thiệp hiệu quả trong điều trị hẹp van hai lá khít. Nhưng có rất ít nghiên cứu về vấn đề này ở các bệnh nhân lớn tuổi là những người thường bị từ chối mổ tách van, do vậy nong van bằng bóng có thể là sự lựa chọn hợp lí nhất đối với họ. Mục tiêu:
(1) Đánh giá kết quả lâm sàng và huyết động của phương pháp nong van hai lá bằng bóng Inoue qua da
ở những BN lớn tuổi (≥ 55 tuổi) bị hẹp van hai lá khít có so sánh đối chứng với nhóm bệnh nhân < 55 tuổi.
(2) Bước đầu mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả NVHL bằng bóng Inoue qua da ở nhóm bệnh nhân ≥ 55 tuổi. Phương pháp: Từ 1/2004 đến 8/2005 các tác giả đã nghiên cứu so sánh 2 nhóm bệnh nhân hẹp van hai lá khít: nhóm I gồm 35 bệnh nhân ≥ 55 tuổi và nhóm II gồm 70 bệnh nhân < 55 tuổi. Các bệnh nhân được thăm khám lâm sàng, xét nghiệm và làm siêu âm theo đề cương nghiên cứu và sau đó được nong van hai lá bằng bóng Inoue. Kết quả: Can thiệp nong van hai lá bằng bóng đã thành công về mặt kỹ thuật ở 100% số bệnh nhân của cả 2 nhóm và đạt kết quả tốt gần như tương đương ở cả 2 nhóm (68,6% số bệnh nhân nhóm lớn tuổi và 70% bệnh nhân nhóm < 55 tuổi). Những thay đổi về cấu trúc và huyết động của tim là tương đương ở cả hai nhóm. Lỗ van hai lá được mở tốt hơn (1,85 ± 0,25 cm2) ở nhóm không có rung nhĩ so với ở nhóm có rung nhĩ (1,58 ± 0,33 cm2). Kết luận: Nong van hai lá là một can thiệp hiệu quả và an toàn trong điều trị hẹp khít van hai lá và có thể coi là phương pháp lựa chọn đối với những bệnh nhân lớn tuổi. Rung nhĩ là một yếu tố ảnh hưởng xấu rõ rệt đến hiệu quả của nong van ở những bệnh nhân lớn tuổi.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích