ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH CHO TRẺ KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TẠI NINH BÌNH
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa: “Sức khoẻ là trạng thái thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hay tàn tật”. Định nghĩa này nhấn mạnh đến chất lượng sống (CLS). Đo lường tình trạng sức khoẻ và bệnh tật bằng các chỉ số đo lường sức khoẻ là việc hết sức cần thiết.
Các khái niệm về chất lượng sống được đề cập đến từ những năm 70. Các công cụ đo lường chất lượng sống được xây dựng nhằm cung cấp một bức tranh hoàn chỉnh hơn về một cá thể, bổ xung cho các đánh giá chức năng đặc thù vốn là mối quan tâm truyền thống của các thầy thuốc lâm sàng. Chất lượng sống được hiểu là cách mà bản thân đối tượng cảm nhận về các khía cạnh của cuộc sống có liên quan trực tiếp đến sức khoẻ, ngoại trừ các vấn đề như niềm tin và tôn giáo [5, 6]. SF-36® là một công cụ đo lường gián tiếp, đánh giá chất lượng sống nói chung khác với công cụ đánh giá chất lượng sống đặc thù theo bệnh. Tuy nhiên rất ít nghiên cứu sử dụng thang đánh gía chất lượng sống được công bố, đặc biệt trong lĩnh vực tàn tật và phục hồi chức năng. Năm 1996, một nghiên cứu của Mỹ sử dụng Thang đánh giá chất lượng sống SF-36® cho thấy người dân Mỹ bình thường có chỉ số sức khỏe ở các lĩnh vực theo thang đánh giá này chỉ đạt từ 61 – 84 điểm và người bị hen có điểm chất lượng sống chỉ dao động trong khoảng từ 48,5 – 52,5. Huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình có số lượng trẻ khuyết tật chiếm khoảng 1% dân số, nhưng chỉ 30 trẻ có nhu cầu mổ chỉnh hình. Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam đề cập đến tác động của phẫu thuật lên chức năng vận động nhưng chúng tôi chưa tìm được tài liệu nào đề cập đến chất lượng sống của người được phẫu thuật chỉnh hình thay đổi sau phẫu thuật như thế nào. Trong khuôn khổ thời gian và nguồn lực có hạn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 30 trẻ khuyết tật vận động được mổ chỉnh hình tại huyện Kim Sơn – Ninh Bình tháng 12/2004 nhằm đánh giá tác động của phẫu thuật chỉnh hình lên cải thiện chất lượng sống và tầm vận động của những trẻ này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được triển khai tại huyện Kim Sơn, Ninh Bình từ tháng 7/2004 – tháng 1/2005.
Đối tượng nghiên cứu: Ba mươi trẻ khuyết tật vận động trên 5 tuổi huyện Kim Sơn – Ninh Bình được phẫu thuật chỉnh hình tại bệnh viện tỉnh Ninh Bình tháng 12/2004.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu can thiệp, so sánh trước và sau phẫu thuật. Các ca mổ này được kíp mổ của khoa Phẫu thuật chỉnh hình bệnh viện Việt Đức tiến hành tại bệnh viện tỉnh Ninh Bình.
Một số phương pháp đánh giá trước và sau phẫu thuật được sử dụng trong NC như sau:
Phương pháp đánh giá chức năng vận động của trẻ: Theo phương pháp Zero. Đây là phương pháp lượng giá chức năng vận động qua đo tầm vận động thụ động và chủ động của khớp [1].
Phương pháp đo lường chất lượng sống sử dụng thang đo SF-36®: Thang này được John E.Ware xây dựng vào năm 1988 dựa trên thang đo Functioning and Well-Being Profile [2, 3, 4]. SF-36® gồm 36 câu hỏi, đề cập đến 8 chủ đề sức khoẻ: Các chức năng cơ thể, giới hạn hoạt động hàng ngày vì các vấn đề sức khoẻ thể chất, giới hạn hoạt động hàng ngày vì các vấn đề cảm xúc, sức sống/sinh lực, cảm giác đau cơ thể, sức khoẻ tinh thần tổng quát, khả năng giao tiếp xã hội, cảm nhận chung về sức khoẻ bản
Trẻ khuyết tật Kim thân. Hiện nay SF-36® được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới, tuy nhiên còn chưa được sử dụng nhiều ở Việt Nam. Phương pháp xử lý số liệu: Nhập số liệu bằng M.Access XP, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích