ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỐNG THÊM SAU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY BẰNG HÓA CHẤT TRƯỚC PHẪU THUẬT CẮT DẠ DÀY VÉT HẠCH D2 TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU BỆNH VIỆN K
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỐNG THÊM SAU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ DẠ DÀY BẰNG HÓA CHẤT TRƯỚC PHẪU THUẬT CẮT DẠ DÀY VÉT HẠCH D2 TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ THEO YÊU CẦU BỆNH VIỆN K
Chử Quốc Hoàn1,, Nguyễn Thị Hà1, Dương Chí Thành
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sống thêm và tỉ lệ tai biến, biến chứng của phẫu thuật cắt dạ dày vét hạch D2 đối với ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng được điều trị hóa chất tiền phẫu. Đối tượng: bệnh nhân được chẩn đoán ung thư biểu mô dạ dày giai đoạn lan rộng tại chỗ tại vùng được hóa chất trước phẫu thuật cắt dạ dày vét hạch D2 tại khoa Điều trị theo yêu cầu Bệnh viện K. Kết quả: Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi trung bình 58,1 ± 9,1 tuổi, tỉ lệ nam/nữ là 1,8. Vị trí u hang môn vị chiếm 69,0%, thân vị chiếm 16,7%, tâm phình vị chiếm 14,3%. Tỉ lệ T3 chiếm 11,9%, T4 chiếm 88,1%. Tỉ lệ di căn hạch chiếm 66,7%. Đại thể u: thể loét chiếm 59,5%, thể sùi 4,8%, thể loét thâm nhiễm hoặc thâm nhiễm 35,7%. Mô bệnh học: thể kém biệt hóa hoặc tế bào nhẫn chiếm tỉ lệ cao nhất với 42,9%, thể biệt hóa vừa chiếm 38,1%, thể biệt hóa cao chiếm 19,0%. Kết quả điều trị: Đánh giá đáp ứng sau 4 đợt hóa trị trước phẫu thuật dựa trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh đạt 61,9%, dựa trên đánh giá tổn thương trong mổ đạt 83,3%. Không có bệnh nhân nào đạt được đáp ứng hoàn toàn trên lâm sàng, tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học là 4,8%. Không có bệnh nhân nào tiến triển phải chuyển phác đồ điều trị, tuy nhiên đánh giá trong mổ có 16,7% bệnh nhân không đáp ứng. Tỉ lệ tai biến biến chứng chung tương đối thấp, không có bệnh nhân tử vong hoặc mổ lại trong 30 ngày đầu, không có trường hợp nào xuất hiện các biến chứng chảy máu sau mổ, rò bục miệng nối sau mổ, tắc ruột sau mổ, hẹp miệng nối. Không phát hiện trường hợp nào xuất hiện suy gan, thận sau mổ. Gặp 2 trường hợp xuất hiện viêm phổi sau mổ chiếm 4,8% và 2 trường hợp nhiễm trùng vết mổ. Thời gian theo dõi trung bình là 28,6 tháng. Tỉ lệ sống thêm không bệnh tính đến thời điểm kết thúc nghiên cứu là 50% và sống thêm toàn bộ là 66,7%.
Ung thư dạ dày là một trong số các bệnh ung thư phổ biến ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo Cơ quan Nghiên cứu ung thư Quốc tế IARC (Globocan 2018) ung thư dạ dày đứng hàng thứ 5 trong các ca ung thư mắc mới và hàng thứ 3 trong các ca tử vong do ung thư ở cả 2 giới [1], gần 50% bệnh nhân được chẩn đoán ở thời điểm tiến triển, tiên lượng xấu, 70-80% bệnh nhân có di căn hạch vùng. Mặc dù phẫu thuật triệt căn vẫn là phương thức chính điều trị ung thư dạ dày nhưng việc chẩn đoán giai đoạn trước mổ với ung thư dạ dày là tương đối khó khăn. Thử nghiệm MAGIC, FLOT 4 cho thấy lợi ích về OS, PFS, tỉ lệ sống 5 năm của hóa trị trước và sau phẫu thuật [2,3]. Hóa trị bổ trợ trước và sau phẫu thuật đã được nghiên cứu giúp giảm giai đoạn, cải thiện đáng kể khả năng phẫu thuật đạt R0 và tiêu diệt những tổn thương vi di căn sớm (đặc biệt ở nhóm bệnh nhân u T3/T4, hạch quanh dạ dày kích thước lớn trên chẩn đoán hình ảnh, hoặc thể thâm nhiễm lan tỏa), tăng khả năng dung nạp với hóa trị cũng như là cho biết được tình trạng đáp ứng với hóa trị hoặc không. Tuy nhiên nhược điểm của việc hóa trị tiền phẫu làm tăng tỉ lệ biến chứnghậu phẫu của phẫu thuật, do đó tại châu Âu, châu Mỹ thường sử dụng vét hạch D1 hoặc D1+, chỉ vét hạch D2 với nhóm bệnh nhân nguy cơ tai biến biến chứng thấp. Tại Việt Nam, cũng như Nhật Bản tỉ lệ tai biến, biến chứng của vét hạch D2 là khá thấp do đó việcvét hạch D2 thường quy với bệnh nhân ung thư giai đoạn tiến triển tại chỗ tại vùng đã hóa trị tiền phẫu[4]. Khoa Điều trị theo yêu cầu Bệnh viện K triển khai điều trị ung thư dạ dày bằng hóa trị trước và sau phẫu thuật cắt dạ dày vét hạch D2 trong những năm gần đây, chủ yếu áp dụng cho những trường hợp ung thư giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng nhưng chưa có tổng kết về kết quả phẫu thuật cũng như tỉ lệ sống thêm sau điều trị.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com