Đánh giá khả năng chịu lực và hệ số chịu lực của răng ở lứa tuổi 20 đến 60

Đánh giá khả năng chịu lực và hệ số chịu lực của răng ở lứa tuổi 20 đến 60

Mất răng là một biến cố lớn trong cuộc sống của con người. Vì mỗi răng là một phần cấu thành bộ răng, mà bộ răng là một phần của hệ thống nhai. Vì vậy, việc mất một hoặc nhiều răng không những chỉ có nghĩa là mất các chức năng của răng mà còn ảnh hưởng tới các chức năng của các răng còn lại của bộ răng và toàn bộ hệ thống nhai.
Ở nước ta tỷ lệ mất răng còn rất cao. Theo kết quả điều tra của Võ Thế Quang (1990) [4], tỷ lệ mất răng ở lứa tuổi 35 – 44 là 47,33%; nhu cầu phục hình bằng cầu cổ điển là 26,33%. Kết quả điều tra của Nguyễn Đức Thắng (1991) [5] ở các tỉnh phía Bắc tỷ lệ mất răng ở lứa tuổi 35 – 44 là 36,67%; nhu cầu làm răng giả là 63,33% trong khi đó chỉ có 2% đã được làm răng giả. Kết quả của Nguyễn Văn Bài (1994) [1] ở miền Bắc Việt Nam tỷ lệ mất răng ở lứa tuổi 35 – 44 là 27,27% đặc biệt ở nhóm tuổi trên 65 là 95,21%; nhu cầu phục hình là 90,43%; tỷ lệ mất răng nói chung là 42,1%; nhu cầu phục hình bằng cầu cổ điển là 59,79%. Theo kết quả điều tra của chúng tôi năm 2007 [2] tại Hà Nội thì tỷ lệ mất răng là 35,3%; nhu cầu phục hình là 33,4% trong đó phục hình bằng cầu là 86,88%; tỷ lệ người đã được phục hình là 15%. Qua kết quả trên cho thấy tỷ lệ mất răng ở nước ta còn rất cao trong khi tỷ lệ được phục hình lại thấp. Với những hậu quả của mất răng gây ra thì phục hình lại răng mất càng sớm càng tốt để trả lại chức năng, ngăn chặn sự siêu lệch của các răng còn lại… và đây cũng là một trong số các biện pháp phòng chống mất răng.
Các phương pháp phục hình thường qui có thể lựa chọn là: phục hình tháo lắp với ưu điểm giá thành rẻ, đơn giản, nhưng khả năng phục hồi chức năng ăn nhai kém. Phục hình bằng phương pháp cắm ghép Implant với ưu điểm phục hồi chức năng tốt nhưng đòi hỏi kỹ
thuật, trang thiết bị phức tạp, giá thành còn quá cao so với thu nhập của người dân. Phục hình bằng cầu cổ điển với ưu điểm tạo cho bệnh nhân sự thoải mái, dễ thích nghi với việc mang hàm giả, phục hồi chức năng tốt, phù hợp với điều kiện hiện tại, do đó phục hình bằng cầu cổ điển dễ tiến hành trên diện rộng. Trong phục hình bằng cầu cố định, bước quan trọng nhất phải tính được lực dự trữ của răng trụ từ đó chúng ta mới thiết kế được cầu răng tốt đảm bảo các chức năng. Ở Việt Nam từ trước tới nay chúng ta chỉ có thể sử dụng bảng tính lực dự trữ của các tác giả nước ngoài, đặc biệt là của Okeman và Ante. Để có một thiết kế cho cầu răng phù hợp với người Việt Nam hơn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: ‘”Đánh giá khả năng chịu lực của răng trụ” nhằm xác định lực của răng trụ và cách tính lực dự trữ cho răng trụ.
II.    ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm những người trong độ tuổi từ 20 – 60 có đủ 32 răng và được chia làm 3 nhóm: nhóm 20 – 34 tuổi; nhóm 35 – 44 tuổi; nhóm 45 – 60 tuổi.
*    Tiêu chuẩn lựa chọn
–    Bệnh nhân trong độ tuổi từ 20 – 60.
–    Có đủ 32 răng.
–    Vùng quanh răng khoẻ mạnh.
–    Tủy răng, tổ chức cứng của răng còn tốt.
*    Tiêu chuẩn loại trừ:
–    Khớp cắn không tốt.
–    Răng không đúng trục.
–    Khớp thái dương hàm không tốt.
–    Sức khoẻ toàn thân không tốt.
–    Đang điều trị chỉnh nha.
2. Phương pháp nghiên cứu
–    Thiết kế nghiên cứu: Mô tả.
–     Chọn mẫu nghiên cứu mô tả xác định lực các răng, dùng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu ước lượng trung bình (mean) [3].
— í — Z(1-“/2) x ơ n = (n + n2 + n3) = ——
Trong đó: ni, n2, n3 cho mỗi nhóm tuổi
n: cỡ mẫu nghiên cứu (n = ni + n2 + n3)
Z(1-a/2> hệ số tin cậy ở mức xác suất 95% ơ: độ lệch chuẩn. ơ = (Xmax – Xmin)/4 = 9,5 kg d: sai số ước lượng, d = 2 kg n = n1 + n2 + n3 = 86, lấy tròn 90
^ n1 = n2 = n3 = 30 người.
Cỡ mẫu tính được là 90 người gồm 3 nhóm, mỗi nhóm 30 người. Trong mỗi nhóm có 15 người có thời gian ăn nhai một bên và 15 người có thói quen ăn nhai hai bên. Dùng máy đo

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment