Đánh giá kiến thức, thực hành về một số vấn đề sức khoẻ bệnh tật của người dân xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam sau can thiệp bằng TT – GDSK
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kiến thức, thực hành về một số vấn đề sức khoẻ bệnh tật của người dân xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam sau can thiệp bằng truyền thông – giáo dục sức khoẻ (TT – GDSK). Kết quả: Tăng tỷ lệ người dân có kiến thức về nguyên nhân của bệnh tiêu chảy: sử dụng nước bẩn, nước lã (22,7%); ăn thức ăn sống (8,6%). Nâng cao kiến thức về các biện pháp phòng bệnh tiêu chảy: ăn chín, uống sôi (55,4%); vệ sinh môi trường (31,9%). Tăng tỷ lệ người dân có kiến thức về nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm: hoá chất bảo vệ thực vật/bảo quản/phụ gia (66,8%); ăn uống không hợp vệ sinh (29,7%). Tăng tỷ lệ người dân thực hành đúng về phòng chống ngộ độc thực phẩm: sử dụng thực phẩm rõ
nguồn gốc (71,5%); rửa rau sạch/ngâm bằng nước muối (44,4%); ăn ở vệ sinh (49,5%). Tăng tỷ lệ người dân thực hành đúng về phòng bệnh lây truyền qua đường tiêu hoá: sử dụng nước sạch (64,8%); sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh (21,4%); ăn chín, uống sôi (21,7%). Kết luận: Hoạt động TT – GDSK ở xã An Mỹ đã góp phần nâng cao kiến thức, thực hành của người dân về một số vấn đề sức khoẻ bệnh tật so với thời điểm trước can thiệp và so với xã đối chứng.
Qua khảo sát năm 2008 tại xã An Mỹ, huyện Bình Lục chúng tôi thấy tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp/ 100.000 dân = 113,89; và tỷ lệ mắc ngộ độc thực phẩm/ 100.000 dân = 15,32; nguyên nhân chủ yếu là do người dân chưa có kiến thức đầy đủ về nguyên nhân và cách phòng tránh bệnh. Theo Nghị quyết số 46 – NQ/TW của Bộ Chính trị một trong những giải pháp chủ yếu để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là TT – GDSK [1]. Từ năm 2008 đến năm 2009, sau khi được thành lập phòng TT – GDSK của Trung tâm y tế huyện Bình Lục đã triển khai thí điểm các hoạt động TT – GDSK nhằm tăng cường kiến thức, thực hành của người dân xã An Mỹ. Để đánh giá ảnh hưởng của chương trình can thiệp, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: “Đánh giá kiến thức, thực hành về một số vấn đề sức khoẻ bệnh tật của người dân xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam sau can thiệp bằng TT – GDSK”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: Chủ hộ hoặc đại diện hộ gia đình trên 18 tuổi thuộc xã An Mỹ và Đồng Du, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
2. Phương pháp
2.1. Địa điểm nghiên cứu: Chúng tôi chọn xã An Mỹ là xã triển khai các hoạt động can thiệp bằng TT – GDSK và xã Đồng Du là xã đối chứng thực hiện các hoạt động TT – GDSK theo chương trình Y tế Quốc gia. Hai xã được chọn tương đối đồng nhất v ề các đặc điểm: kinh tế, văn hoá, nghề nghiệp, địa hình.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu can
– giáo dục sức khoẻ
thiệp có so sánh đối chứng.
2.3. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu: hộ gia đình được tính theo công thức ước tính tỷ lệ:
n = Z2(1-a/2)
d2
Với công thức này số hộ gia đình cần điều tra của một xã là 267. Tổng số hộ gia đình sẽ điều tra là: 2 xã x 267 hộ gia đình/xã = 534 hộ gia đình. Thực tế chúng tôi đã điều tra được 600 hộ gia đình của cả 2 xã. Các đại diện hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên hệ thống, đối tượng trước và sau can thiệp chọn trùng nhau.
2.4. Quy trình can thiệp tại xã An Mỹ
1. Thành lập phòng TT – GDSK thuộc Trung tâm y tế huyện Bình Lục;
2. Đào tạo cho cán bộ phòng TT – GDSK huyện và cán bộ trạm y tế xã về kỹ năng truyền thông, kỹ năng theo dõi, giám sát;
3. Hướng dẫn, xây dựng kế hoạch hoạt động TT – GDSK trong đó chú trọng đến cả hoạt động TT – GDSK trực tiếp và gián tiếp;
4. Xác định nội dung và xây dựng tài liệu TT – GDSK dựa trên các vấn đề sức khoẻ bệnh tật mà người dân chưa có kiến thức, thực hành đầy đủ;
5. Xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động TT – GDSK cụ thể;
6. Thực hiện hoạt động TT-GDSK cho người dân theo kế hoạch, lồng ghép các hoạt động TT – GDSK vào công việc hàng ngày của cán bộ y tế: mọi người dân đến trạm y tế đều được tư vấn GDSK;
7. Theo dõi, giám sát hoạt động TT- GDSK tại xã/ thôn của cán bộ phòng TT-GDSK.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích