Đánh giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên Đại học điều dưỡng chính quy khoá I trường Đại học điều dưỡng Nam Định
Sức khoẻ là vốn quí nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Đảng ta đã khẳng định: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp đảm bảo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ là đầu tư cho sự phát triển về kinh tế và xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân và gia đình [9].
Trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Người điều dưỡng là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống nhân lực y tế và đóng góp trực tiếp vào việc giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ biến chứng, tử vong và rút ngắn số ngày điều trị của người bệnh
[1], [9].
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng trong cả nước được quan tâm đúng mức, nhiều văn bản về công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực điều dưỡng được ban hành và triển khai như: Luật giáo dục 2005, Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2010, Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Điều lệ về trường Đại học
– Cao đẳng và mới đây nhất là Nghị quyết số 46 NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới. Bộ Y tế đã ban hành kế hoạch hành động quốc gia về tăng cường công tác điều dưỡng giai đoạn 2002 – 2010 [2], [9].
Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng trong cả nước ngày càng được củng cố và phát triển. Thực hiện tiến trình quy hoạch hệ thống đào tạo y tế, tháng 2/2004 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định thành lập trường Đại học điều dưỡng Nam Định – đây là trường Đại học điều dưỡng đầu tiên trong hệ thống các trường đại học của nước nhà. Như vậy, hiện cả nước có 10 trường đại học, 7 trường cao đẳng và 56 trường trung cấp y tế đào tạo chuyên ngành điều dưỡng [1], [5].
Hệ thống đào tạo nguồn lực điều dưỡng trong cả nước được hình thành và phát triển tương đối hoàn chỉnh, xu hướng đào tạo điều dưỡng có trình độ tay nghề cao ngày càng được đặc biệt quan tâm.
Do sự nỗ lực phấn đấu trên mà nguồn nhân lực điều dưỡng của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tuy vậy, so với nhu cầu thực tiễn trong tình hình mới và so với tình hình phát triển của các nước trong khu vực, công tác đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng nước ta còn những bất cập cần được giải quyết [9].
Hệ thống đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề của Hoa Kỳ cho thấy, dù điều dưỡng được đào tạo hay tốt nghiệp ở bất cứ nơi nào của nước Mỹ cũng đều phải vượt qua kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề ở cấp quốc gia. Điều đó có nghĩa là Điều dưỡng dù được đào tạo ở đâu, thời gian nào, theo chương trình đào tạo nào trên đất Mỹ đều phải đạt được những chuẩn mực hay chất lượng hành nghề thống nhất trên toàn Quốc [4].
Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về điều dưỡng, nhưng còn ít các công trình nghiên cứu về kỹ năng thực hành Nghề của sinh viên Đại học điều dưỡng. Xuất phát từ thực tế kể trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên Đại học điều dưỡng chính quy khoá I trường Đại học điều dưỡng Nam Định”, nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Đánh giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên Đại học điều dưỡng tại trường Đại
học điều dưỡng Nam Định.
2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao kỹ năng thực hành nghề của sinh viên Đại học điều dưỡng trước khi ra trường.
Nghiên cứu 162 sinh viên Đại học điều dưỡng chính quy khoá I (2005 – 2009), tại trường Đại học điều dưỡng Nam Định về kỹ năng thực hiện thao tác bằng tay, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng tư duy. Kết quả cho thấy:
– Kỹ năng thao tác bằng tay: Tỷ lệ sinh viên đạt loại giỏi là 30,86%, loại khá là 56,17%, loại trung bình là 12,35% và có 0,62% đạt loại yếu.
– Kỹ năng giao tiếp: Tỷ lệ sinh viên đạt loại giỏi là 8,64%, loại khá là 30,86%, loại trung bình là 40,13% và 20,37% loại yếu.
– Kỹ năng tư duy: Tỷ lệ sinh viên đạt loại giỏi là 17,28%, loại khá là 29,63%, loại trung bình là 29,63% và 23,46% đạt loại yếu kém.
Trong đó, tỷ lệ sinh viên Đại học điều dưỡng còn yếu về kỹ năng giao tiếp và tư duy
chiếm tỷ lệ cao.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích