Đánh giá kỹ thuật và kết quả phẫu thuật nội soi tuyến giáp qua 8 năm thực hiện tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từ tháng 01/2003 đến tháng 10/2011
Nghiên cứu nhằm đánh giá kỹ thuật và kết quả phẫu thuật nội soi tuyến giáp qua 8 năm thực hiện tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từ tháng 01/2003 đến tháng 10/2011. Kết quả cho thấy kích thước bướu nhân đo được trên siêu âm đã mổ là 8 cm, thể tích lớn nhất của bệnh Grave là 120 ml. Cách thức mổ chủ yếu là cắt 1 thùy (79,9%), cắt toàn bộ tuyến giáp (12,5%). Chẩn đoán giải phẫu bệnh: chủ yếu là bướu nhân (71,3%), u tuyến tuyến giáp (20,5%). Đối với ung thư tuyến giáp: cắt toàn bộ tuyến giáp (59,4%), cắt toàn bộ tuyến giáp có nạo vét hạch (34,8%). Đối với bệnh Grave: cắt gần toàn bộ tuyến giáp chiếm chủ yếu (88,1%). Thời gian mổ trung bình với cắt thùy trong những năm đầu là 98,6 ± 28,6 phút (40-180), năm 2010 trung bình 26,39 ± 5,12 phút (18-45). Năm 2003 có 3 ca Basedow và năm 2009 có 1 ca bướu nhân phải chuyển mổ mở vì chảy máu. Không có trường hợp nào suy cận giáp vĩnh viễn. Kết luận: phẫu thuật nội soi tuyến giáp có thể được thực hiện ở tất cả các loại bệnh lý tuyến giáp ngay cả đã có mổ mở tuyến giáp từ trước.
Những ưu điểm của phẫu thuật nội soi nói chung và phẫu thuật nội soi tuyến giáp nói riêng đã liên tục được khẳng định. Phẫu thuật nội soi tuyến giáp mặc dù ra đời sau phẫu thuật nội soi ổ bụng 10 năm nhưng đã chứng tỏ được những ưu điểm vượt trội so với phẫu thuật mở kinh điển, đặc biệt về mặt thẩm mỹ. Sau mổ, bệnh nhân không cần phải che đậy vùng cổ, có thể đi làm hay hòa nhập cộng đồng sớm hơn. Phẫu thuật nội soi tuyến giáp hiện nay đã được áp dụng ở hầu hết các quốc gia nhưng nhiều nhất vẫn là ở Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc… Việt Nam đứng đầu các nước Đông Nam Á về số lượng bệnh nhân tuyến giáp được phẫu thuật bằng nội soi, với kỹ thuật được coi là hoàn hảo nhất trong khu vực. Phẫu thuật nội soi tuyến giáp có 2 loại: nội soi hỗ trợ và nội soi hoàn toàn (VIDEO asissted thyroidectomy and total endoscopic thyroidectomy). Tuyến giáp không nằm trong khoang sẵn như lồng ngực, ổ bụng. Vì vậy, để có thể tiến hành phẫu thuật người ta phải tạo ra khoang làm việc. Để tạo khoang làm việc cũng có 2 kỹ thuật khác nhau: sử dụng khung nâng da và sử dụng bơm khí C02. Mỗi một loại đều có những ưu nhược điểm riêng. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu “Đánh giá kỹ thuật và kết quả phẫu thuật nội soi tuyến giáp qua 8 năm thực hiện tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương từ tháng 01/2003 đến tháng 10/2011”.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân có chỉ định mổ nội soi tuyến giáp tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương trong thời gian từ tháng 01/2003 đến tháng 10/2011. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân không có chỉ định mổ nội soi tuyến giáp; bệnh nhân ung thư tuyến giáp loại không biệt hóa; ung thư loại biệt hóa nhưng thâm nhiễm rộng, di căn nhiều nơi; các loại viêm tuyến giáp,
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích