Đánh giá một số phiền nạn của bệnh nhân trong một tháng sau gây mê và phẫu thuật
Đánh giá các phiền nạn của bệnh nhân (BN) trong một tháng sau gây mê, phẫu thuật và xác định yếu tố nguy cơ của một số phiền nạn. Đôi t-ơng và ph-ơng pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả trên 100 BN. BN đ-Ợc hoi trực tiếp qua điện thoại. Các triệu chứng đ-Ợc đánh giá theo điểm độ nặng. Nguy cơ của các phiền nạn đ-Ợc tính theo tỷ suất chênh (OR). Kết quả: Các phiền nạn của BN một tháng sau mô: ăn kém (37%), ngủ kém (23%), đau vết mô (19%), chóng mặt (7%), đau đầu (5%), khó khăn khi làm việc trí óc (5%), ù tai (4%), bí đại tiện (3%), ho (3%). Nguy cơ của đau đầu là nữ, tê tuỷ sống (OR = 1.7 & 1.8); chóng mặt là nữ, Marcain (OR = 2 & 1.4); nôn-buổn nôn là nữ, gây mê NKQ, Thiopental (OR = 1.6, 1.3 & 1.9); ho là NKQ (OR = 5.6); của đau vết mô là nữ, thời gian PT (OR = 3 & 2.5). Kết luân: Còn tỷ lệ lớn BN gặp nhiều phiền nạn 1 tháng sau GM và phẫu thuật, ảnh h-ởng đến sinh hoạt hàng ngày. Các yếu tố nguy cơ của một số phiền nạn: Nữ (đau đầu, hoa mắt, nôn-buổn nôn, đau vết mổ), TTS (đau đầu), NKQ (nôn-buổn nôn, ho), Thiopental (nôn- buổn nôn), Marcain (hoa mắt, chóng mặt), thời gian phẫu thuật (đau cơ, đau vết mổ, giảm trí nhớ).
Tr-ớc khi ngành gây mê (GM) ra đời, vấn đề tốc độ phẫu thuật (PT) và sức chịu đựng của BN là yếu tố quyết định thành công của ca PT. Ngày16/10/1846 tại Boston, sự kiện Bác sỹ William Morton thực hiện ca GM bằng Ete đầu tiên đã mở ra một thời kỳ mới cho PT mà ở đó ng-ời bệnh đ-Ợc vô cảm. Trải qua gần 2 thế kỷ phát triển, ngành GM hồi sức ngày nay đã có những b-ớc tiến v-Ợt xa về độ an toàn và tiến bộ kỹ thuật. Tỷ lệ tử vong trong PT chỉ còn 1/250.000 ca và chất l-Ợng của cuộc GM, gây tê (GT) ngày càng đ-Ợc quan tâm. Một số nghiên cứu đã b-ớc đầu đ-a ra nhận xét, đánh giá về tình hình BN sau vô cảm. Kết quả cho thấy tỷ lệ BN gặp phiền nạn (tai biến nhẹ) sau vô cảm là không nhỏ. Cụ thể: 10% đau trong mổ [3], 26% buồn nôn và nôn sau mổ [1], 23% đau đầu sau mổ [8] và nhiều phiền nạn khác gặp ở BN với các tỷ lệ khác nhau. Các nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại tại phòng hồi tỉnh hoặc phòng hồi sức tích cực trong một thời gian ngắn (ngay khi BN tỉnh dậy [6], một vài ngày sau mổ [5] hoặc đến khi BN ra viện [4]).
Tại các bệnh viện thuộc tuyến trung -ơng n-ớc ta, tình trạng BN luôn quá tải, không thể giữ BN lâu tại các buồng điều trị. Vấn đề theo dõi sức khoẻ BN sau mổ một thời gian dài là hết sức khó khăn. Những phiền nạn của BN khi đã ra viện th-ờng đ-Ợc giải quyết ở các cơ sở y tế địa ph-ơng hoặc ng-ời bệnh âm thầm chịu đựng, chỉ một số l-Ợng không lớn tr-ờng hỢp có thông tin phản hồi khi gặp hậu quả nghiêm trọng. Cho đến nay ch-a có nghiên cứu nào về khả năng hòa nhập cuộc sống hàng ngày của BN sau phẫu thuật. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục đích:
1. Đánh giá tỷ lệ gặp và độ nặng các phiển nạn của BN trong một tháng sau GM và PT.
2. Xác định yêu tô nguy cơ của một sô phiển nạn.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích