Đánh giá mức độ sao chép MRNA của EGFR ở mô ung thư tuyến vú
Ung thư biểu mô vú là sự phát triển ác tính của các tế bào biểu mô lót bên trong lòng ống và tiểu thuỳ tuyến vú được Tổ chức Y tế Thế giới năm 2003 phân thành 34 loại khác nhau, trong đó có 4 thể thường gặp (thể tủy, thể nhày, thể tiểu thùy và thể ống). Đây là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ, chiếm 21% trong tổng số các bệnh ung thư của phụ nữ trên thế giới và đứng thứ 5 sau ung thư phổi, dạ dày, gan, đại tràng. Năm 2005, tỷ lệ tử vong do ung thư vú chiếm 7% số người tử vong do ung thư và 1% tổng số tử vong của thế giới [9].
Ở Việt Nam, ung thư vú là một trong hai loại ung thư thường gặp nhất. Năm 1998, tần xuất mắc ung thư vú cao nhất ở Hà Nội với tỷ lệ 20,3/100000 dân và đứng thứ 2 ở TP Hồ Chí Minh với tỷ lệ 18/100000 dân sau ung thư cổ tử cung (28,6/100000) [1]. Theo ghi nhận của bệnh viện K năm 2000, tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú chung cho cả nước là 17,4/100000 phụ nữ.
Yếu tố phát triển biểu mô (EGF) là một polypeptid với vai trò kích thích sự tăng sinh, biệt hoá của tế bào bình thường và các tế bào ác tính. Thụ thể yếu tố phát triển biểu mô (EGFR), được mã hoá bởi gen tiền ung thư c – erb. Đây là một phân tử glycoprotein bề mặt màng, trọng lượng phân tử 170 kDa, gồm một vùng gắn kết các phối tử nằm ngoài màng tế bào, một vùng xuyên màng đặc hiệu và một vùng bên trong tế bào có hoạt tính tyrosin kinase. Tyrosin kinase đóng vai trò chính trong điều hoà sự tăng sinh và biệt hoá của tế bào [3]. Tự phosphoryl hoá vùng có hoạt tính enzym kinase này khởi đầu một loạt phản ứng tế bào dẫn đến sự tăng sinh và tiến triển ác tính của khối u như: tăng sinh mạch máu, di căn và ức chế quá trình chết theo chương trình (appotosis) [7].
Trong khoảng mười năm trở lại đây, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những bằng chứng chứng minh EGFR được tăng cường sao chép và biểu hiện ở cả mức độ mRNA và protein trong một số thể ung thư của tuyến giáp, đại trực tràng, phổi, mô đệm thần kinh, tiền liệt tuyến và tử cung [4, 5, 6, 7, 8]. EGFR đang được nghiên cứu như dấu ấn (marker) trong chẩn đoán sớm, theo dõi hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh. Chính vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu:
Đánh giá mức độ sao chép mRNA của EGFR ở mô u xơ so với mô ung thư vú ở các giai đoạn tiến triển và thể loại tế bào học khác nhau.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 62 mẫu mô vú trong đó có 15 mẫu u xơ và 37 mẫu ung thư. Tất cá các mẫu mô lấy từ bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học tại bệnh viện K. Bệnh nhân không mắc bất kỳ loại bệnh hoặc ung thư nào khác.
2. Phương pháp nghiên cứu
Quy trình tách chiết RNA tổng số từ mô u xơ và mô ung thư vú Sử dụng kit Trizol để tách chiết RNA tổng số theo quy trình đã được mô tả của Tạ Thành Văn và cộng sự [10]. RNA tổng số thu được đảm bảo nồng độ và độ tinh sạch tối ưu để tổng hợp cDNA.
Kỹ thuật tổng hợp ngược cDNA (RT – PCR)
Bốn microgram RNA tổng số thu được sau tách chiết sẽ sử dụng để tổng hợp cDNA. Quá trình tổng hợp sử dụng random primer pha loãng 20 lần, dNTPs, enzym tổng hợp MMLV – RT, chất ức chế RNAse và protein.
Thụ thể yếu tố phát triển biểu mô (Epiderman Growth Factor Receptor – EGFR) là một glycoprotein bề mặt màng tế bào, nơi tiếp nhận các kích thích ngoại bào thông qua hoạt tính tyrosin kinase. EGFR được phát hiện ở các dòng tế bào biểu mô và liên quan đến bệnh sinh của nhiều loại ung thư khác nhau. Mục tiêu: đánh giá mức độ sao chép mRNA của EGFR ở mô u xơ so với mô ung thư biểu mô tuyến vú ở các giai đoạn và các thể loại tế bào học khác nhau. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 62 mẫu bệnh phẩm trong đó có 47 mẫu mô ung thư biểu mô tuyến vú, 15 mẫu u xơ được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học. Các mẫu mô này được tách chiết RNA tổng số, tổng hợp cDNA và đánh giá mức độ sao chép của EGFR. Kết quả và kết luận: sự sao chép của HIP tăng rõ ở mô ung thư vú so với mô u xơ, mức độ sao chép này phụ thuộc vào giai đoạn phát triển và thể loại tế bào học của ung thư biểu mô tuyến vú.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích