Đánh giá nhanh tỷ lệ mắt hột hoạt tính và quặm do mắt hột, tỷ lệ mù và các nguyên nhân chính gây mù ở cộng đồng 3 tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương năm 2009
Hiện nay, bệnh mắt hột tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn là 1 trong 5 nguyên nhân gây mù chủ yếu trên thế giới và ở nước ta. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính thế giới có khoảng 6 triệu người mù do mắt hột. Ở Việt Nam, ước tính theo kết quả của “Đánh giá nhanh mù lòa có thể phòng tránh được”(RAAB) năm 2007 ở 16 tỉnh thì cả nước có khoảng 380.800 người mù hai mắt, trong đó có 251.700 người mù do bệnh đục thể thủy tinh và 6500 người mù do mắt hột, chiếm 1,7% tổng số người mù [2]. Hiện cả nước còn khoảng 644.900 người bị quặm, trong đó hơn 300.000 người quặm trên 4 lông cần phải mổ để tránh mù lòa [2]. Để đạt được mục tiêu “Thị giác 2020” nhằm thanh toán các loại mù loà có thể phòng tránh được, trong đó có mắt hột vào năm 2020 ở nước ta, 3 tỉnh vốn là vùng mắt hột lưu địa (Thái Bình, Nam Định và Hải Dương) đã được chọn để làm thí điểm thanh toán bệnh mắt hột. Vì vậy, cần có nghiên cứu để đánh giá tình hình mắc mắt hột hoạt tính ở trẻ em dưới 16 tuổi và quặm ở người từ 40 tuổi trở lên tại 3 tỉnh này để xây dựng kế hoạch thanh toán bệnh mắt hột gây mù vào năm 2013.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Xác định tỷ lệ mắt hột hoạt tính ở trẻ em dưới 16 tuổi và tỷ lệ quặm do mắt hột ở người từ 40 tuổi trở lên ở cộng đồng.
2. Đánh giá tỷ lệ mù và các nguyên nhân chính gây mù ở người từ 40 tuổi trở lên tại cộng đồng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: 5201 trẻ em dưới 16 tuổi (gồm 2725 nam và 2476 nữ) và 9554 người từ 40 tuổi trở lên (gồm 3866 nam và 5688 nữ), sống ở 90 cụm điều tra ở 3 tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải Dương.
2. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả.
3. Cỡ mẫu: tính theo công thức: n = ( 3,8416 x p x q)/ e2. Tỷ lệ mắt hột hoạt tính ở trẻ em ước tính là 5%, chọn e là 1%, thì cỡ mẫu khám mắt hột hoạt tính ở mỗi tỉnh là 1800 trẻ em dưới 16 tuổi. Tỷ lệ quặm là 3% (điều tra RAAB 2007) [2], chọn e = 0,6% thì cỡ mẫu khám quặm ở mỗi tỉnh là 3.105 người từ 40 tuổi trở lên. Mỗi tỉnh chọn ngẫu nhiên 30 cụm khám, mỗi cụm khám ít nhất 60 trẻ em dưới 16 tuổi và khám quặm cho 104 người từ 40 tuổi trở lên.
4. Chọn mẫu: lập danh sách các xã trong tỉnh kèm dân số, cộng dồn số dân. Lấy tổng số dân của tỉnh chia cho 30 mẫu chùm để tìm khoảng cách mẫu, máy vi tính chọn ngẫu nhiên 1 số, sau đó cộng thêm số khoảng cách mẫu để tìm ra người cần được ngẫu nhiên khám sẽ ở trong số dân của xã, phường nào, từ đó xác định xã, phường cần được điều tra. Tại mỗi xã phường đó, dân số đã được phân chia theo danh sách địa bàn dân cư (thường mỗi địa bàn khoảng 500 dân), tiến hành bắt thăm ngẫu nghiên một cụm địa bàn dân cư và báo trước ngày khám để dân chờ. Đúng ngày hẹn, đoàn điều tra đến địa bàn dân cư đã bắt thăm, được cán bộ phụ trách dân số và y tá thôn bản dẫn đến đầu cụm dân cư rồi bắt đầu khám từ nhà bên trái trước theo nguyên tắc “nhà liền nhà”. Tại mỗi nhà, phải khám tất cả những người trên 40 tuổi có hộ khẩu tại đó, và trẻ em từ 16 tuổi trở xuống sống tại hộ đó. Tiếp tục khám các hộ khác cho đến khi đủ 104 người lớn và 60 trẻ em dưới 16 tuổi. Nếu ai đi vắng phải mời về hoặc hẹn cuối ngày đến khám lại. Nếu đi vắng xa không thể về được hoặc từ chối khám, phải lập phiếu vắng hoặc từ chối khám, nhưng tổng số các phiếu này càng ít càng tốt và không được phép có quá 6 phiếu tại 1 cụm điều tra.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích