ĐÁNH GIÁ NHỮNG PHIỀN NẠN VÀ BIẾN CHỨNG CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢM ĐẦU NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY MÊ TOÀN THÂN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỚN Ở VÙNG BỤNG

ĐÁNH GIÁ NHỮNG PHIỀN NẠN VÀ BIẾN CHỨNG CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢM ĐẦU NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY MÊ TOÀN THÂN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỚN Ở VÙNG BỤNG

 ĐÁNH GIÁ NHỮNG PHIỀN NẠN VÀ BIẾN CHỨNG CỦA PHƯƠNG PHÁP GIẢM ĐẦU NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY MÊ TOÀN THÂN TRONG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỚN Ở VÙNG BỤNG

Phan Tôn Ngọc Vũ*, Nguyễn Văn Chừng 
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Phối hợp gây mê toàn thân và gây tê ngoài màng cứng (NMC) trong phẫu thuật nội soi (PTNS) không những giúp bệnh nhân (BN) đạt được giảm đau tốt hơn trong và sau phẫu thuật (PT), mà còn tạo cơ hội cho những BN lớn tuổi, có nhiều bệnh kèm có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật mổ ít xâm lấn với biến chứng ít hơn. Ngoài mục tiêu khảo sát những thuận lợi của phương pháp vô cảm này, chúng tôi còn đánh giá những tai biến và phiền nạn của nó nhằm giảm thiểu tối đa và phòng được những biến chứng có thểxãy ra.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau và biến chứng của phương pháp gây mê phối hợp gây tê ngoài màng cứng và gây mê toàn thân trong PTNS ở bụng
Phương pháp nghiên cứu: Từ 10/2008 đến tháng 2/2009 chúng tôi tiến hành thực hiện trên 144 bệnh nhân PTNS lớn ở vùng bụng, nhóm E gồm 72 bệnh nhân được gây tê NMC phối hợp gây mê toàn thân duy trì liên tục giảm đau NMC sau mổ, nhóm G gồm 72 bệnh nhân gây mê toàn thân duy trì giảm đau morphine sau phẫu thuật.
Kết quả nghiên cứu: Không có sự khác biệt giữ 2 nhóm về tuổi trung bình cân nặng, ASA, thời gian gây mê, thời gian phẫu thuật, lượng dịch truyền. Lượng fentanyl trung bình ở nhóm E thấp hơn nhóm G(154 mg so với 376mg), thời gian làm thủ thuật TNMC là 12 phút, đau nhẹ đến trung bình khi làm thủ thuật: 80%, Lượng mocphin trung bình nhóm G dùng giảm đau 24 giờ đâu: 34mg, nhóm E dùng 4mg. VAS khi nằm yên ở T1 nhóm E và G là(3,33 và 5,00), T2 là (2,50 và 4,00), T4 (1,17 và 3,17), VAS khi ho, vận động ở T1 nhóm E và G (4,00 và 6,33). Mốc chọc tê NMC chủ yếu ở đoạn ngực D11-D12 (34,73%) và D10-D11 (26,39%), các biến chứng gồm hạ huyết áp cân điều trị trong mổvà sau mổ là 15% và 4,16%, suy hô hấp sau mổ chiếm 2,8%, chạm máu khi chọc 8%, không cótụ máu NMC, không cótổnthươngthânkinh,chọclạiĩânthứ 3:16%,yếu1 chân
2,8%, đau khi làm thủ thuật chiếm 80%…không có tai biến nghiêm trọng, tử vong.
Kết luận: Phối hợp gây tê NMC với gây mê toàn thân trong và sau mổ làm giảm nhu câu fentanyl trong mổ và nhu câu sử dụng mocphin sau phẫu thuật nội soi lớn ở vùng bụng, biến chứng chính của nhóm gây tê NMC là hạ huyết áp, suy hô hấp, chạm máu và chọc khó (>3 lân), không có biến chứng nghiêm trọng và tử vong.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment