Đánh giá sự thay đổi của loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng ghép kết mạc rìa tự thân tại Bệnh Viện Mắt Trung Ương

Đánh giá sự thay đổi của loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng ghép kết mạc rìa tự thân tại Bệnh Viện Mắt Trung Ương

Luận văn Đánh giá sự thay đổi của loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng ghép kết mạc rìa tự thân tại Bệnh Viện Mắt Trung Ương.Loạn thị giác mạc do mộng thịt là một quá trình biến dạng từ từ của bề mặt giác mạc do bị xâm lấn của mộng thịt từ vùng rìa vào trung tâm giác mạc [23].Mộng gây co kéo bề mặt nhãn cầu nên gây loạn thị và ảnh hưởng đáng kể đến thị lực của bệnh nhân, sự phát triển của đầu mộng trên giác mạc luôn luôn tạo ra sù thay đổi của độ cong giác mạc không đồng đều ở các kinh tuyến và làm giác mạc dẹt lại gây loạn thị [26]. Do vậy khi để bệnh tồn tại càng lâu đồng nghĩa với việc chấp nhận cho giác mạc có nguy cơ sẹo và biến dạng [23].

Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về độ loạn thị trước và sau mổ mộng, như nghiên cứu của Ashaye A.O (1990) cho thấy rằng sau phẫu thuật cắt mộng giảm độ loạn thị, mức thay đổi loạn thị là 1,5D [28].
Năm 1993 Sorian J.M, Janknech và cộng sự đo độ loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng thấy độ loạn thị trung bình trước phẫu thuật là 4,21D và sau phẫu thuật độ loạn thị còn 1,29D [45]. Tại Việt Nam nghiên cứu của Huỳnh Tuấn Cảnh và Lê Huy Thông năm 2004 cho thấy kích thước của mộng liên quan đến độ loạn thị giác mạc, độ loạn thị này có khuynh hướng gia tăng khi độ mộng tăng [23], khi mộng thịt nguyên phát xâm lấn qua vùng rìa > 3mm sẽ gây loạn thị trầm trọng >3D [23]. Do vậy sau khi được phẫu thuật cắt mộng thì độ loạn thị giảm và thị lực được cải thiện đáng kể.

Mộng thịt là bệnh khá phổ biÕn ở Việt Nam, theo thống kê năm 1996 của Bệnh viện Mắt Trung Ương tỷ lệ người bị mộng chiếm 5,24% trong tổng số dân điều tra, trong đó tập chung nhiều hơn ở vùng ven biển miền trung [6].
Theo điều tra của Hà Huy Tài năm 2004 ở tỉnh Hưng Yên tỷ lệ bị mộng là 9,6%  dân số [19].
Phương pháp tối ưu trong điều trị mộng là phẫu thuật cắt mộng, đó cú rất nhiều phương pháp phẫu thuật được áp dụng như mổ mộng vùi, cắt mộng áp Mytomycin [17] [20]… Từ năm 1997 tại Bệnh viện Mắt và một số tỉnh thành đã áp dụng khá rộng rãi phương pháp cắt mộng ghép kết mạc rìa tự thân, đã có nhiều báo cáo chứng minh tính hiệu quả (Ýt tái phát) của phương pháp này so với phương pháp cắt mộng đơn thuần. KÕt quả nghiên cứu cũng cho thấy phương pháp này có tỷ lệ thành công cao nhất trong các phương pháp phẫu thuật mộng và tỷ lệ tái phát cũng thấp nhất. Theo tác giả Ngô Văn Phượng trong phương pháp cắt mộng ghép kết mạc rìa tự thân, mảnh ghép kết mạc có thể cung cấp những tế bào mầm khỏe mạnh và có thể chứa một loại yếu tố tăng trưởng đặc biệt gọi là Cytokine có khả năng ngăn ngõa sự tăng sinh của mô sợi và có thể tái sinh bù đắp các tế bào đã bị mất vùng rìa.
Ở Việt Nam đã có khá nhiều nghiên cứu sâu về mộng [10], [17], [22], chủ yếu về các kỹ thuật mổ mộng và kết quả phẫu thuật, rất Ýt công trình nghiên cứu về biến chứng sau phẫu thuật mộng và chưa có nghiên cứu nào đánh giá về sự thay đổi loạn thị sau phẫu thuật mộng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
Đánh giá sự thay đổi của loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng ghép kết mạc rìa tự thân tại Bệnh Viện Mắt Trung Ương” nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Đánh giá sù thay đổi loạn thị sau phẫu thuật méng ghép kết mạc rìa tự thân.
2. Khảo sát một số yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của loạn thị trước và sau phẫu thuật mộng ghép kết mạc rìa tự thân.

Leave a Comment