Đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của người dân phường trung dũng và tân phong, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua thực phẩm, sau 1 năm can thiệp
Trong giai đoạn từ 1962 đến 1971, quân đội Mỹ đã rải xuống môi trường Việt Nam khoảng 76,9 triệu lít thuốc diệt cỏ, trong đó chất da cam chiếm một lượng lớn.1,2 Một số nghiên
cứu gần đây đã xác định 7 điểm nóng nhiễm dioxin ở Việt Nam, trong đó sân bay Biên Hòa được cho là một trong 3 điểm nóng nhiễm dioxin trầm trọng nhất ở Việt Nam.3,4 Trong chiến tranh, hóa chất chứa tại sân bay Biên Hòa bị rò rỉ nhiều lần với lượng lớn và nhiều nghiên cứu khoa học khác đã cho thấy nồng độ dioxin tồn dư trong đất, bùn, một số thực phẩm và mẫu máu của người dân địa phương hiện vẫn đang ở mức cao.5,6,7 Năm 2007, nghiên cứu khảo sát KAP trước can thiệp cho thấy mặc dù sống trên vùng ô nhiễm dioxin nặng nhưng kiến thức và thực hành của người dân ở phường Trung Dũng và Tân Phong, thành phố Biên Hòa về dự phòng nhiễm độc dioxin qua đường thực phẩm vẫn rất hạn chế. Các nhóm thực phẩm có nguy cơ ô nhiễm dioxin cao như cá nước ngọt, thịt ngan, vịt và thịt gà được tiêu thụ khá phổ biến tại địa phương.8 Năm 2008, chương trình can thiệp theo cách tiếp cận Y tế công cộng (YTCC) đã được triển khai nhằm giảm nguy cơ phơi nhiễm dioxin qua đường thực phẩm cho người dân tại điểm nóng nhiễm dioxin.
Sáu lớp tập huấn đã được tổ chức cho các nhà quản lý, đại diện các ban ngành liên quan và các cộng tác viên là Hội viên Hội YTCC Đồng Nai. Nội dung tập huấn về các tác hại của dioxin, nguy cơ phơi nhiễm dioxin, phương pháp dự phòng, phương pháp tư vấn cộng đồng sử dụng tờ rơi, tranh ảnh và tư vấn trực tiếp. Các sản phẩm truyền thông về dioxin và dự phòng nhiễm độc dioxin qua thực phẩm như tờ rơi, poster để dán tại hộ gia đình, các bài nói chuyện, bài phát thanh trên loa truyền thanh phường đã được xây dựng, thử nghiệm và áp dụng. Trong năm 2008, các cộng tác viên đã triển khai các hoạt động truyền thông tại cộng đồng như tư vấn trực tiếp, phát tờ rơi, dán poster tại hộ gia đình; truyền thông trong các buổi họp cộng đồng như họp tổ dân phố, sinh hoạt hội Phụ nữ và các đoàn thể khác tại 2 phường v.v. Tổng cộng đã có 36 buổi truyền thông tại cộng đồng được tổ chức. Tháng 9/2009 nghiên cứu đánh giá KAP sau 1 năm can thiệp đã được thực hiện.
Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu này được triển khai nhằm :
• Đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thái độ và thực hành về dự phòng phơi nhiễm dioxin qua đường thực phẩm của người dân sống tại hai phường Trung Dũng và Tân Phong, thành phố Biên Hòa, trước và sau can thiệp (2007-2009)
• Đề xuất các khuyến nghị nhằm hoàn thiện và nhân rộng mô hình tại các điểm nóng nhiễm dioxin khác ở Việt Nam.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu đánh giá trước – sau can thiệp với đối tượng là 400 người mua/chế biến thực phẩm, từ 16-60 tuổi, đại diện cho 400 hộ gia đình tại 2 phường được chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi-data 3.1, và phân tích bằng phần mềm SPSS 17.0.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Trong khảo sát KAP sau can thiệp 2009 có 426 đối tượng tuổi từ 16 đến 60 tham gia nghiên cứu, trong đó nữ chiếm 83,3%, nam chiếm 16,7%. Về trình độ học vấn, trong số 426 đối tượng nghiên cứu có 0% mù chữ, 11,1% tốt nghiệp cấp một, 40% tốt nghiệp cấp 2, 42,1% tốt nghiệp cấp 3 hoặc có trình độ học vấn cao hơn và 6,4% khác. Nghề nghiệp chính của các đối tượng nghiên cứu là nội trợ (41,8%), buôn bán nhỏ (18%) và công nhân (13,2%), cán bộ công chức nhà nước (9%), hưu trí (7,1%), làm vườn 1,6% và tỉ lệ thất
nghiệp là 0,7%. Có 4,7% đối tượng phải thường xuyên tiếp xúc với bùn đất tại địa phương trong công việc hàng ngày. Số năm trung bình sống tại địa phương là 23 năm (Sd = 15,1). Như vậy, thời gian mà các đối tượng nghiên cứu có nguy cơ phơi nhiễm dioxin là rất dài.
3.2. Kiến thức về dioxin và dự phòng nhiễm độc dioxin
Kiến thức của người dân ở 2 phường về sự tồn tại của dioxin trong môi trường có cải thiện hơn nhiều so với trước can thiệp, đặc biệt là kiến thức về sự tồn tại của dioxin trong nước tăng 9,4% (X2=7,6, p = 0,006) và thực phẩm tăng 21% (x2=50,3, p<0,001 Hình 1). Kiến
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích