Đánh giá sức cản động mạch phổi bằng siêu âm – Doppler tim trước và sau điếu trị đóng lỗ Thông liên nhĩ
Sức cản động mạch phổi (PVR) đóng vai trò quan trọng trong tiên lượng và quyết định thái độ điều trị đối với các bênh nhân Thông liên nhĩ (TLN) nói riêng hay tim bẩm sinh nói chung: còn phẫu thuật được hay đã chuyển sang Eisenmenger ? Xác định PVR bằng phương pháp siêu âm – Doppler tim, một phương pháp thăm dò tim mạch không xâm lấn, là một tiến bộ của y học từ 2003 trở lại đây. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu PVR bằng siêu âm – Doppler tim trên 163 trường hợp TLN đơn thuần kiểu lỗ thông thứ 2 có tuổi trung bình 28,21 ± 14,59 (3 – 62 tuổi) trước và sau đóng lỗ thông, đặc biệt trong đó PVR được đo đối chiếu bằng thông tim cho 30 ca TLN có tăng áp động mạch phổi (TAĐMP) nặng. Các kết quả trên đều được so sánh với nhóm chứng 72 người bình thường khoẻ mạnh tương ứng về tuổi, giới với nhóm TLN. Cụ thể như sau: PVR trung bình của nhóm TLN là 2,25 ± 1,31 (chứng 1,31 ± 0,20; p<0,0001). Trong nhóm TAĐMP nặng: chỉ có 15 trường hợp còn chỉ định đóng TLN với PVR siêu âm là 3,45 ± 1,29 (PVR thông tim = 4,15 ± 2,21; p = 0,31), còn 15 ca Eisenmenger có PVR siêu âm = 5,83 ± 1,39 (PVR thông tim = 6,44 ± 1,64; p =
0,28).
Sau khi đóng TLN, PVR giảm dần nhưng phải sau 6 tháng thì sự khác biệt này mới có ý nghĩa thống kê (PVR = 1,75 ± 0,56; p<0,05 so với nhóm chứng). Như vậy, việc đo PVR bằng phương pháp siêu âm – Doppler tim cho kết quả đáng tin cậy và có thể áp dụng trong một số hoàn cảnh đặc biệt như: trẻ nhỏ, nơi xa không có phòng Cathlab.
Thông liên nhĩ (TLN) là một trong những bệnh tim bẩm sinh thường gặp nhất, chiếm khoảng từ 5% – 10% các dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh, khoảng 30% các dị tật bẩm sinh ở người lớn và khoảng 0,01% trong dân số [3]. Bệnh có thể được chữa khỏi hoàn toàn nếu lỗ TLN được đóng kín (bằng dụng cụ qua da hoặc bằng phẫu thuật). Ngược lại, TLN nếu không được đóng lỗ thông sẽ dẫn đến tăng áp động mạch phổi, suy tim và cuối cùng chuyển thành hội chứng Eisenmenger, từ đó làm giảm tuổi thọ và giảm khả năng lao động khi người bệnh đến tuổi trưởng thành [7].
Phát hiện sớm và đóng lỗ TLN đóng vai trò rất quan trọng, nhưng vấn đề đặt ra là: khi người bệnh đến muộn đã có tăng áp động mạch phổi nhiều thì còn chỉ định đóng lỗ thông liên nhĩ nữa hay không? Đây là một câu hỏi mang tính chất quyết định “sống còn” đối với bệnh nhân vì khi áp lực động mạch phổi tăng cao tới mức nhất định nào đó sẽ hình thành xơ hoá ở thành các tiểu động mạch phổi, làm tăng sức cản mạch phổi và dần dần sẽ dẫn đến tăng áp động mạch phổi cố định [7,10]. Khi đó sẽ không còn chỉ định đóng lỗ thông liên nhĩ nữa cho dù thực hiện phương pháp nào: phẫu thuật hay Tim mạch can thiệp.
Theo kinh điển, người ta dùng kỹ thuật thông tim phải để đánh giá tình trạng huyết động: cụ thể đo sức cản động mạch phổi (PVR). Tuy nhiên, đây lại là một thăm dò chảy máu và không phải dễ dàng thực hiện ở bất cứ nơi nào, đặc biệt trên những bệnh nhân nhỏ tuổi do phải tiến hành gây mê cho trẻ trong quá trình thực hiện kỹ thuật này. Vì vậy, để cố gắng khắc phục các nhược điểm trên, từ năm 1980 trở lại đây trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu lâm sàng cố gắng tìm cách định lượng được sức cản động mạch phổi bằng siêu âm – Doppler tim mà vẫn đảm bảo được tính chính xác như thông tim [5,6]. Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về vấn đề này.
Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá sức cản động mạch phổi bằng siêu âm – Doppler tim trước và sau điếu trị đóng lỗ Thông liên nhĩ ” với 2 mục tiêu nghiên cứu cụ thể là:
1. Xác định sức cản động mạch phổi bằng siêu âm – Doppler tim ở các bệnh nhân Thông liên nhĩ
2. Khảo sát sự thay đổi sức cản động mạch phổi bằng siêu âm- Doppler tim trước và sau đóng lỗ Thông liên nhĩ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích