Đánh giá tác dụng của enoxaparin trong điều trị dự phòng viêm tắc tĩnh mạch lên các yếu tố đông máu ở bệnh nhân chấn thương sọ não
Sau mổ chấn thương nói chung cũng như chấn thương sọ não (CTSN) nói riêng có sự hoạt hóa các yếu tố đông máu, đặc biệt là các bệnhnhân (BN) nằm điều trị tại hồi sức. Nhằm tránh nguy cơ tắc mạch và tử vong ở bệnh nhân này từ năm 1987 các tác giả trên thế giới đã đưa heparin trọng lượng phân tử thấp (TLPTT) vào sử dụng với mục đích phòng và điều trị tắc tĩnh mạch sâutrong một số chuyên khoa, đặc biệt là sau phẫu thuật CTSN. Nhiều nghiên cứu đã đưa ra tính vượt trội trong hiệu quả điều trị của heparin TLPTTtrong dự phòng tắc mạch sâu [2, 3, 5, 6]. Mộtsố tác giả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ viêm tắc tĩnh mạch ở các BN nằm điều trị tại hồi sức gấp từ 13 – 31% so với BN không điều trị tại hồi sức[1] và thấy rằng heparin trọng lượng phân tử thấp có tác dụng điều trị an toàn và hiệu quả hơn hẳn so với heparin dùng liều thấp [3]. Hiện nay tại khoa
Hồi sức bệnh viện Việt Đức có rất nhiều BN bị CTSN nặng đang được điều trị bằng enoxaparin để dự phòng tắc mạch sau phẫu thuật, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số đông máu trong điều trị dự phòng bằng enoxaparin trên bệnh nhân sau mổ CTSN.Mục tiêu:đánh giá sự thay đổi về đông máu trong khi sử dụng enoxaparin để điều trị dự phòng viêmtắc
tĩnh mạch trên bệnh nhân chấn thương sọ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 55 bệnh nhân sau mổ chấn thương sọ não được sử dung enoxaparin 40 mg tiêm dưới da. Đánh giá hàng ngày sự thay đổi về tiểu cầu, thời gian prothrombin, INR, aPTT, fibrinogen vàD – dimer. Định lượng yếu tố kháng Xa trong máu của bệnh nhân vào thời điểm sau 4 giờ tiêm để điều chỉnh liều enoxaparin. Kết quả:bệnh nhân có Glasgow 4 – 5 chiếm 36,4% và 6 -8 là 63,6%. Máu tụ ngoài màng cứng chiếm 23,6%, dưới màng cứng là 16,4% và phối hợp là 60%. Nồng độ yếu tố kháng Xa là
0,295 ± 0,017 UI/ml. Sau điều trị bằng enoxaparin, tiểu cầu và thời gian prothrombin giảm dầnvới p < 0,01 nhưng vẫn ở mức bình thường. D – dimer giảm 2,3 lần vào ngày thứ ba (876,9 so với 335,5). APTT và INR tăng rõ rệt so với ngay sau mổ với p < 0,01. Thời gian aPTT và tiểu cầu thay đổi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) giữa hai nhóm có độ hôn mê và tổn thương não khác nhau. Kết luận:điều trị dự phòng bằng enoxaparin ở bệnh nhân CTSN có sự thay đổi một số yếu tố đông máu nhưng nồng độ các yếu tố này vẫn trong mức giới hạn bình thường
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích