Đánh giá tác dụng giảm đau dự phòng sau mổ của nefopam truyền tĩnh mạch trước khi rạch da ở các bệnh nhân được mổ bụng trên

Đánh giá tác dụng giảm đau dự phòng sau mổ của nefopam truyền tĩnh mạch trước khi rạch da ở các bệnh nhân được mổ bụng trên

Nghiên cứu nhằm mục tiêu:Đánh giá tác dụng giảm đau dự phòng sau mổ của Nefopam truyền tĩnh mạch trước khi rạch da ở các bệnh nhân (BN) được mổ bụng trên. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, mù đôi, ngẫu nhiên, có đối chứng trên 62 bệnh nhân được phẫu thuật gan mật hoặc tuỵ.
Nhóm Nefopam: Truyền 20mg Nefopam/20 phút trước rạch da. Nhóm chứng: Truyền NaCl 0,9% tương tự. Tất cả bn được giảm đau sau mổ bằng phương pháp PCA. Đánh giá thời gian yêu cầ u giảm đau đầu tiên, lượng Morphine dùng chuẩn độ, Morphine/48 giờ sau mổ , điểm đau VAS/48 giờ khi nghỉ và ho. Kết quả nghiên cứu: Thời gian yêu cầu giảm đau, Morphine chuẩn độ, Morphine/24 giờ đầu và 24 giờ sau của nhóm Nefopam thấp hơn nhóm chứng: 42 ± 8,9 phút, 5,6 ± 1,7 mg, 25,2 ± 4,9 mg và 10,1 ± 3,6 mg sv 22 ± 4,8; 7,1 ± 1,5; 30,1 ± 4,5; 13,3 ± 2,1, p < 0,05 và < 0,01. VAS cả lúc bệ nh nhâ n nghỉ và ho củanhóm Nefopam
thấp hơn nhóm chứng trong 16 giờ đầu sau mổ (p < 0,05). Kết luận: Nefopam truyền trước khi rạch da có tác dụng giảm đau dự phòng sau mổ biểu hiện bằng làm giảm một cách có ý nghĩa điểm đau VAS cả khi nghỉ và khi ho trong 16 giờ đầu sau mổ và giảm nhu cầu sử dụng Morphine trong 48 giờ sau mổ.

Một trong nhữ ng vấn đề người bệnh thường gặ p phả i ở giai đoạ n sau mổ đó là họ luô n cả m thấ y đau dữ dội hơn mức độ thực tế của kích thích gây đau, người ta gọi đó là hiện tượng tăng cảm giác đausau mổ. Cơ chế của hiện tượng này là do sự tăng nhạy cảm của hệ thống thần kinh trung ương với các kích thích gây đau. Hậu quả là các kích thích dưới ngưỡng đau cũng gây được cảm giác đau, hoặc các kích thích trên ngưỡng gây ra cảm giá c đau dữ dộ i hơn [1, 2, 7]. Từ năm 1983 nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh: điều trị đau trước khi có kích thích gây đau có tác dụng ức chế quá trình nhạy cảm hoá của hệ thần kinh trung ương, giúp kiểm soát được hiện tượng tăng cảm giác đau sau mổ. Đây chính là cơ sở sinh lý củ a phương phá p giảm đau dự phò ng (pre-emptive analgesia). Một số thuốc đã được xác nhận có tác dụng giảm đau dự phòng như: họ Morphin, thuốc giảm đau Non-steroide, thuốc ức chế receptor NMDA như ketamin, gabapentin [3 – 6].
Nefopam là thuốc giảm đau mạnh đã được đưa vào sử dụng trong lâm sàng từ năm 1976. Một số nghiên cứ u dược lý học và thực nghiệ m gần đâ y cho thấy nefopam có tác dụng ứ c chế receptor NMDA, và tác dụ ng giảm đau dự phò ng [3,6]. Cho đến nay chưa có một nghiê n cứuđầy đủ nà o trên lâm sàng về tác dụ ng giảm đau dự phòng của nefopam. Vì vậ y chú ng tô i tiế n hà nh nghiên cứ u đề tài này nhằ m mục tiêu: Đánh giá tác dụng giảm đau dự phòng sau mổ của nefopam truyền tĩnh mạch trước khi rạch da ở các bệnh nhân được mổ bụng trên

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment